Hồ Chí Minh với sự nghiệp hòa hợp dân tộc trong thời kỳ 1945 - 1946

Trong thời kỳ 1945 - 1946, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tuy chính quyền đã về tay nhân dân, nhƣng vận mệnh dân tộc lại phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do sự chống phá của thù trong, giặc ngoài. Có thể nói, trong lịch sử, chƣa bao giờ trên đất nƣớc ta lại có nhiều kẻ thù cùng lúc nhƣ vậy, “các quân đội nƣớc ngoài từ bốn phƣơng cũng dồn dập kéo tới. Bọn ở gần, bọn ở xa. Chúng khác nhau về màu da, về tiếng nói nhƣng rất giống nhau ở một dã tâm: muốn thôn tính đất nƣớc ta, muốn đẩy chúng ta trở về với cuộc sống nô lệ”1. Thời điểm này, chúng ta chƣa nhận đƣợc sự công nhận và giúp đỡ của các nƣớc trong phe dân chủ trên thế giới, dân tộc ta phải chiến đấu trong vòng vây của nhiều kẻ thù, quần chúng nhân dân trong nƣớc có nhiều bộ phận chƣa hẳn đã nghiêng về phía cách mạng,. càng làm cho tình hình khó khăn nhiều hơn.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hồ Chí Minh với sự nghiệp hòa hợp dân tộc trong thời kỳ 1945 - 1946, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 373| HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP HÒA HỢP DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ 1945 - 1946 TS. Nguyễn Văn Trường* ThS. Lê Đức Thuận** Học viện Chính trị - Bộ Quốc Phòng. Trong thời kỳ 1945 - 1946, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tuy chính quyền đã về tay nhân dân, nhƣng vận mệnh dân tộc lại phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do sự chống phá của thù trong, giặc ngoài. Có thể nói, trong lịch sử, chƣa bao giờ trên đất nƣớc ta lại có nhiều kẻ thù cùng lúc nhƣ vậy, “các quân đội nƣớc ngoài từ bốn phƣơng cũng dồn dập kéo tới. Bọn ở gần, bọn ở xa. Chúng khác nhau về màu da, về tiếng nói nhƣng rất giống nhau ở một dã tâm: muốn thôn tính đất nƣớc ta, muốn đẩy chúng ta trở về với cuộc sống nô lệ”1. Thời điểm này, chúng ta chƣa nhận đƣợc sự công nhận và giúp đỡ của các nƣớc trong phe dân chủ trên thế giới, dân tộc ta phải chiến đấu trong vòng vây của nhiều kẻ thù, quần chúng nhân dân trong nƣớc có nhiều bộ phận chƣa hẳn đã nghiêng về phía cách mạng,... càng làm cho tình hình khó khăn nhiều hơn. Thực tế này đòi hỏi phải thực hiện hòa hợp dân tộc, gắn kết các lực lƣợng, các thành phần trong xã hội, nhằm tạo ra sức mạnh to lớn để đƣa dân tộc vƣợt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” và thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc. Với quan điểm nhất quán “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng đề ra chủ trƣơng tập hợp lực lƣợng đoàn kết toàn dân tộc một cách sáng tạo và đạt đến tầm nghệ thuật. Những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp hòa hợp dân tộc trong thời kỳ này đƣợc thể hiện sinh động trên một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, Hồ Chí Minh luôn vun đắp cho tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đa tộc ngƣời, với 54 dân tộc anh em cùng chung nguồn gốc là con Lạc cháu Hồng, cùng chung vận mệnh, cùng gắn bó máu thịt. Trong lịch sử, trải qua rất nhiều thử thách khắc nghiệt, nhƣng cũng từ thực tiễn đó mà tinh thần đoàn kết, cấu kết cộng đồng đã đƣợc hình thành và vun đắp, tạo ra sức mạnh to lớn cùng * Phó Chủ nhiệm Khoa Lịch sử Đảng ** Giảng viên Khoa Lịch sử Đảng 1 Võ Nguyên Giáp (1974), Những năm tháng không thể nào quên, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.42. Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |374 nhau dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đây chính là căn nguyên cho sự hình thành nét đặc trƣng văn hóa của ngƣời Việt đó là sự thống nhất trong đa dạng; mọi dân tộc đều là tình ruột thịt, nghĩa đồng bào. Ngay sau khi về nƣớc vào đầu năm 1941, Ngƣời đã sớm đề ra chủ trƣơng thành lập Mặt trận Việt Minh, đóng vai trò là ngọn cờ để tập hợp rộng rãi các lực lƣợng, trong đó có các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Thực hiện nhất quán quan điểm dân tộc Việt Nam là một, tôn trọng những khác biệt, lấy lợi ích quốc gia dân tộc là nét tƣơng đồng để gắn kết thành một khối thống nhất. Chủ trƣơng này của Đảng và Hồ Chí Minh đã thức tỉnh tinh thần dân tộc trong đông đảo quần chúng, biết lấy lợi ích chung của dân tộc để cùng nhau xây đắp; đồng thời, làm thất bại âm mƣu lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, gây rối của các thế lực thù địch. Khi đến dự Đại hội các dân tộc thiểu số lần thứ nhất miền Bắc vào ngày 03/12/1945, Hồ Chủ tịch nói: “Hơn 20 dân tộc, họp lại một nhà, tay bắt mặt mừng, rất là thân ái. Đó là một cuộc Đại hội xƣa nay chƣa từng có, một cuộc thân thiện làm cho cả đất nƣớc vui mừng”2, Ngƣời khẳng định: các dân tộc đều bình đẳng, Chính phủ sẽ hết sức giúp đỡ đồng bào về mọi mặt; đồng thời, đề nghị đồng bào các dân tộc thiểu số ra sức ủng hộ chính phủ, giúp đỡ kháng chiến, đẩy mạnh trồng trọt và chăn nuôi vì sự thành công của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của nƣớc nhà. Trong thƣ gửi đồng bào nhân dịp Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mƣờng hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sƣớng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”3. Lời căn dặn của Ngƣời nhƣ hồn thiêng song núi, nhƣ lời hiệu triệu đoàn kết bèn chặt giữa các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam; cho dù sinh sống ở các vùng khác nhau, tiếng nói và tập quán có khác nhau nhƣng cùng chung vận mệnh, sẵn sàng hy sinh vì nhau, hy sinh vì vận mệnh Tổ quốc. Với quan điểm đúng và chính sách phù hợp; đặc biệt, với uy tín của Hồ Chủ tịch đã tạo ra sức cảm hóa to lớn đến mọi tầng lớp nhân dân. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam cùng nhận thức trách nhiệm của mình, thực hiện đoàn kết, có những đóng góp to lớn, thiết thực vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc vô cùng oanh liệt của cả dân tộc, dƣới sự lãnh đạo của Đảng. 2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.155. 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Hà Nội, tr.249. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 375| Thứ hai, có chủ trương đúng đắn để động viên các tôn giáo cùng kính chúa yêu nước, sống phúc âm trong lòng dân tộc. Tôn giáo luôn là vấn đề rất nhạy cảm, nếu không xử lý đúng sẽ trở thành mảnh đất tốt để kẻ thù tìm cách lợi dụng, gây mất ổn định, hƣớng tới mục đích cuối cùng là chống phá chính quyền cách mạng. Vì vậy, để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và làm thất bại âm mƣu chia rẽ của kẻ thù, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chủ tịch đã đề ra quan điểm: Tín ngƣỡng tự do và lƣơng giáo đoàn kết. Chủ trƣơng này đã tạo ra sự tin tƣởng lớn của đồng bào có đạo vào Chính phủ và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Không dừng lại ở việc đề ra chủ trƣơng, trong mọi hành động và việc làm của Hồ Chí Minh đều thể hiện rất sinh động tinh thần hòa hợp giữa các dân tộc. Tại buổi tiếp đại biểu các tôn giáo nhƣ Gia Tô, đạo Phật và đạo Cao Đài vào sáng ngày 13/9/1945, Hồ Chủ tịch đã nói: Dân tộc giải phóng thì tôn giáo mới đƣợc giải phóng. Lúc này, chỉ có quốc gia mà không phân biệt tôn giáo nữa, mỗi ngƣời đều là công dân của nƣớc Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc. Tiếp đó, ngày 20/9/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 35/SL, quy định rõ việc nhân dân đƣợc tự do tín ngƣỡng nhƣng phải tôn trọng đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ và tất cả các nơi có tính cách tôn giáo. Khi Pháp trở lại tái chiếm Nam Bộ, một số giáo dân bị dụ dỗ theo, lôi kéo; nhƣng nhờ có chính sách khoan hồng, độ lƣợng của Đảng mà nhiều đồng bào công giáo đã thức tỉnh, tự nguyện quay về với cách mạng. Họ đã viết thƣ cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, hứa thành khẩn hối lỗi, nguyện ƣớc phụng sự Chúa, phụng sự Tổ quốc. Trong phiên họp ngày 27/9/1945, với tƣ cách là ngƣời đứng đầu Chính phủ, Hồ Chủ tịch đã nhất trí với đề xuất của cha Tòng về việc đánh một bức điện gửi sang Tòa thánh Vatican yêu cầu công nhận nền độc lập của Việt Nam. Vì vậy, giáo dân và các chức sắc, chức việc tôn giáo đã gạt bỏ những thành kiến cũ, tỉnh táo trƣớc những lời ve vãn của kẻ xấu, đề cao lợi ích chung của dân tộc để có những việc làm thiết thực, đóng góp vào sự nghiệp chung của nƣớc nhà. Nhân dân cả nƣớc, nhất là nhân dân Hà Nội vẫn còn ghi nhớ hình ảnh về ông Ngô Tử Hạ (1882 - 1973) là nhà tƣ sản dân tộc, quê ở Quy Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, sau đó cƣ ngụ tại số 14 đƣờng Lamblot (nay là phố Nhà Chung - Hà Nội). Ông đã từng theo học ở nhà dòng, có ảnh hƣởng rất lớn trong giới chức sắc, chức việc tôn giáo và là ngƣời nổi tiếng nhất ở Đông Dƣơng trong lĩnh vực in ấn. Đƣợc giác ngộ và nhận thức trách nhiệm của cá nhân với Tổ quốc, ông Ngô Tử Hạ đã tích cực tham gia các hoạt động kiến quốc, đƣợc Chính phủ phân công là ngƣời đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |376 Chính phủ. Hình ảnh một ông già ăn mặc chỉnh tề với khăn xếp, áo the kéo xe bò dẫn đầu đoàn ngƣời qua các đƣờng phố Hà Nội kêu gọi quyên góp tiền bạc và phân phát lƣơng thực cho những ngƣời đói nghèo trong những ngày đầu nƣớc nhà mới giành đƣợc độc lập; hình ảnh ông cùng Hồ Chủ tịch làm lễ cầu siêu cho hơn hai triệu ngƣời chết đói tại Nhà thờ lớn Hà Nội có sức ảnh hƣởng rất lớn đến nhận thức và hành động của đông đảo giáo dân cả nƣớc. Viết trên báo Cứu quốc ngày 15/01/1946, Hồ Chủ tịch cho rằng: Dù công giáo hay không công giáo, phật giáo hay không phật giáo đều phải đấu tranh cho nền độc lập của nƣớc nhà. Đặc biệt, trong chuyến thăm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang vào ngày 17/11/1946, Ngƣời đã vào thăm, nói chuyện thân mật với các linh mục Áctôra ở thị xã Bắc Ninh và linh mục Mayo ở thị xã Bắc Giang. Thay mặt Chính phủ, Ngƣời bày tỏ sự vui mừng vì hai linh mục đã gây đƣợc hòa khí đoàn kết lƣơng giáo, tạo sự ổn định về an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn. Thứ ba, Hồ Chí Minh luôn tỏ rõ thái độ chân thành, bỏ qua những thành kiến cũ để cảm hóa và thu phục nhân tâm. Theo Hồ Chí Minh: vì lợi ích của cách mạng phải có lòng khoan dung, độ lƣợng, trân trọng cái phần thiện dù là nhỏ nhất ở mỗi con ngƣời mới có thể quy tụ mọi lực lƣợng. Vào những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, không hẳn ai cũng có chung một suy nghĩ, một chí hƣớng; tuy nhiên, “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhƣng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu ngƣời cũng có ngƣời thế này thế khác, nhƣng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta”4, đã là con dân đất Việt thì ít nhiều đều có lòng yêu nƣớc và nghĩa đồng bào, ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc; vì vậy, “Đối với những đồng bào lạc lối lầm đƣờng, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có nhƣ thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tƣơng lai chắc sẽ vẻ vang”5. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền non trẻ đang phải giải quyết rất nhiều công việc, đội ngũ cán bộ các cấp còn thiếu, trình độ, năng lực còn hạn chế. Song, điều quan trọng, nếu những nhân sỹ, trí thức, quan lại trong chế độ cũ đứng trong bộ máy chính quyền dân chủ sẽ có sức thuyết phục rất lớn đối với đa số dân chúng. Vì vậy, ngày 20/11/1946, Ngƣời đã gửi thƣ kêu gọi tìm ngƣời tài đức để xây dựng đất nƣớc. Ngƣời viết: “Nƣớc nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu ngƣời có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. 4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.280. 5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.280. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 377| Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phƣơng phải lập tức điều tra nơi nào có ngƣời tài đức, có thể làm đƣợc những việc ích nƣớc lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”6. Riêng đối với những quan lại trong chế độ cũ, trên tinh thần chân thành và mong muốn hòa hợp, trong Thƣ gửi các đồng chí tỉnh nhà ngày 17/9/1945, Hồ Chủ tịch nhắc nhở: Chúng ta không nên đào bới những chuyện cũ ra làm án mới. Đối với những ngƣời không nguy hiểm lắm, thì nên dùng chính sách cảm hoá, khoan dung, không nên bắt bớ lung tung, không nên tịch thu vô lý, làm cho dân kinh khủng. Chính sách đại đoàn kết dân tộc và tấm lòng khoan dung, độ lƣợng của Hồ Chủ tịch đã cảm hóa đƣợc nhiều nhân sĩ, trí thức, kể cả các quan lại trong chế độ cũ, không quản ngại gian khổ, hy sinh đã một lòng, một dạ đi theo cách mạng đến cùng nhƣ: Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Thƣợng thƣ Bùi Bằng Đoàn... Với những ngƣời có tƣ tƣởng đối lập, Hồ Chí Minh cũng thể hiện một tấm lòng độ lƣợng, khoan dung khi họ đã ǎn nǎn, hối cải hoặc đã lâm vào cảnh bần cùng, thất thế. Chỉ ít ngày sau lễ ra mắt của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử ông Hoàng Minh Giám đi tìm Trần Trọng Kim, nguyên Thủ tƣớng chính phủ bù nhìn do Nhật lập nên ngày 17/4/1945. Nhƣng khi ông Giám tìm đƣợc đến nhà thì Trần Trọng Kim đã rời khỏi Hà Nội... Cũng trong thời gian đó, khi Ngô Đình Diệm bị địa phƣơng bắt đƣa về Hà Nội. Ngày 15/01/1946, Hồ Chủ tịch đã thuyết phục Ngô Đình Diệm hợp tác với Chính phủ, nhƣng Ngô Đình Diệm từ chối. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lệnh trả tự do cho Ngô Đình Diệm. Thứ tư, biết phát huy vai trò của những người có vị thế cao trong chính quyền cũ đối với sự nghiệp hòa hợp dân tộc. Phát huy vai trò của những ngƣời có vị thế và uy tín cao trong chế độ cũ, động viên họ cùng tham gia chính quyền và có những đóng góp nhất định cho dân tộc là tƣ tƣởng đặc sắc của Hồ Chí Minh. Trong bài “Khoan hồng mà không nhu nhược”, ký bút danh Chiến Thắng, Ngƣời viết: “Đối với quan lại cũ, trừ những bọn đại gian, đại ác, Chính phủ Cộng hòa ta cũng tỏ một độ lƣợng không để tâm moi ra những tội cũ đem làm án mới làm gì”7. Trong những lần gặp gỡ, tiếp xúc, trong thƣ từ, điện văn, lời kêu gọi đồng bào cả nƣớc, Hồ Chủ tịch đều dành những lời tâm huyết nhắn gửi tới tất cả những ai còn chƣa tham dự vào công việc chung. 6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.504. 7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.49. Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |378 Ngày 14/11/1945, Hồ Chí Minh có bài viết “Nhân tài và kiến quốc” đăng trên báo Cứu quốc. Qua bài báo này, Ngƣời chỉ rõ: “Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem hết lòng hăng hái đó vào con đƣờng kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nƣớc ta dù chƣa có nhiều lắm nhƣng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”8. Coi trọng những ngƣời có đức, có tài cùng tham gia xây dựng chính quyền cách mạng của Hồ Chí Minh nhƣ ngọn lửa thắp sáng niềm tin cho mọi ngƣời dân Việt Nam. Trƣớc hết, phải kể đến việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ quyết định mời cựu hoàng Bảo Đại, khi đó là công dân Vĩnh Thụy ra Hà Nội làm Cố vấn Chính phủ. Đến ngày 10/9/1945, sau khi có sự nhất trí của các bộ trƣởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 23/SL cử ông Vĩnh Thụy làm cố vấn Chính phủ lâm thời. Sau này, trong Chính phủ kháng chiến do Quốc hội khóa 1 lập ra, Vĩnh Thụy đƣợc phân công đứng đầu cố vấn đoàn. Đây là hành động vô tiền khoáng hậu, chƣa từng có trong lịch sử và chỉ có xảy ra ở Việt Nam với sự khoan dung của cách mạng của Hồ Chí Minh. Việc cựu vƣơng cùng đứng trong bộ máy của Chính phủ lâm thời đã xóa đi sự nghi kỵ, lo lắng của những ngƣời trong chế độ cũ với thể chế dân chủ. Tiếp đó, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 14/11/1945, Hồ Chủ tịch đề nghị Hội đồng Chính phủ cử Ban cố vấn gồm 10 vị giúp việc cho Chủ tịch nƣớc. Ngƣời giới thiệu 6 cá nhân để Hội đồng Chính phủ cho ý kiến: Ông Bùi Bằng Đoàn, giáo sĩ Lê Hữu Từ, ông Ngô Tử Hạ, ông Bùi Kỷ, ông Lê Tại và bác sĩ Nguyễn Đình Luyện. Trong đó, ông Bùi Bằng Đoàn, từ một vị quan đại thần trong triều đình phong kiến, nhận rõ đƣờng lối cách mạng của Đảng và mến mộ tài đức của Hồ Chí Minh, đã nguyện đem sức lực, tài năng của mình phụng sự đất nƣớc. Giống nhƣ “chiếu cầu hiền” của các bậc minh quân ở các triều đại phong kiến tiến bộ nƣớc ta trong lịch sử, trong thành phần Chính phủ đã có nhiều trí thức tham gia Quốc hội, có nhiều đại biểu không đảng phái, thậm chí cả đảng phái không đứng trong Mặt trận Việt Minh. Sự kiện nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng đƣợc mời giữ chức Bộ truởng Bộ Nội vụ và giao Quyền Chủ tịch nƣớc khi Hồ Chủ tịch sang Pháp công cán vào ngày 31/5/1946 đã thể hiện tài năng, nghệ thuật trong phép dụng nhân của Hồ Chí Minh. Trên cƣơng vị Bộ trƣởng Bộ Nội vụ, Quyền Chủ tịch nƣớc, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã không quản tuổi cao, tích cực tham gia vào các hoạt động quan trọng của Chính phủ. Theo Cụ: Trong lúc phục hƣng dân tộc, xây dựng nƣớc nhà thì bất kỳ già trẻ, trai, gái trai 8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.114. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 379| cũng phải ra sức phụng sự Tổ quốc. Bằng uy tín và trách nhiệm của mình, cụ Huỳnh đã có nhiều đóng góp cho sự đoàn kết, hòa hợp dân tộc và hoạt động của Chính phủ. Thứ năm, luôn kiên trì thuyết phục, cảm hóa các cá nhân tích cực trong các đảng phái chính trị khác nhau. Trong thời kỳ này, ở Việt Nam tồn tại nhiều đảng phái chính trị; trong đó, có nhiều đảng phái phản động làm tay sai cho quân Tƣởng nhƣ Việt Quốc, Việt Cách, đảng Phục Quốc, một số đảng phái thân Nhật nhƣ: Đại Việt quốc xã, Đại Việt dân chính Đảng, Quốc dân Đảng cải tổ, Phụng sự quốc xã Riêng ở Nam Bộ, lợi dụng tình hình phức tạp, bọn tay sai cũ nhƣ Nguyễn Văn Chinh, Lê Văn Hạnh, đã ngóc đầu dậy, lập ra nhiều tổ chức chính trị phản động nhƣ: “Đảng Đông Dƣơng tự trị” hay “Đảng Nam Kỳ”; đáng chú ý, bọn Đại Việt và những kẻ cầm đầu Tờrốtkít tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam. Trong các tổ chức chính trị này, nổi lên nguy hiểm và đấu tranh chống phá ta quyết liệt nhất là Việt Quốc và Việt Cách. Chúng đều là tay sai của quân Tƣởng, nhƣng giữa hai tổ chức này có những khác biệt. Việt Cách có sự tham gia của nhiều lực lƣợng, thành phần với các quan điểm chính trị khác nhau; trong đó, có cả những ngƣời Việt mang tinh thần yêu nƣớc nhƣng bị lừa bịp, lôi kéo, họ đã đi theo cách mạng sau khi đƣợc giác ngộ. Nắm đƣợc điều này, Hồ Chủ tịch đã tìm cách đấu tranh, chuyển hóa nhận thức đối với những nhân cốt tiến bộ của Việt Cách; từng bƣớc cảm hóa và kêu gọi Việt Cách hợp tác chặt chẽ với Việt Minh, cùng nhau chống thực dân Pháp, vì một nền độc lập dân tộc. Không dừng lại ở đó, ngày 03/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thƣ cho Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, Ngƣời vừa vạch mặt âm mƣu của chúng, vừa gửi lời mời cùng tham gia cuộc bầu cử “Xin mời các đồng chí Quốc dân Đảng tham gia Tổng tuyển cử ở các nơi”9. Sau những cố gắng không mệt mỏi, ngày 23/12/1945, đại diện của Việt Minh là Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với đại diện của Việt Quốc, Việt Cách là Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần cùng ký kết văn bản Biện pháp hợp tác gồm 14 điểm cơ bản và 4 điều bản phụ, nội dung đề cập đến việc thành lập chính phủ và Tổng quyển cử. Ngay ngày hôm sau (24/12/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu gồm: Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Lê Tùng Sơn, Cù Huy Cận và Phan Trâm tiếp tục ký một tài liệu quan trọng khác là “Tinh thành đoàn kết”, quy định thông qua thƣơng lƣợng để cùng nhau giải quyết mọi vấn đề bất đồng nảy sinh giữa các bên. Đến ngày 9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.133. Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |380 25/12/1945, đại diện của bốn bên, trong đó có thêm đại diện của Đảng Dân chủ Việt Nam là Đỗ Đức Dục đã ký tiếp văn bản quy định về thể thức thành lập chính phủ sau khi bầu cử. Sau đó, ba thành viên của các đảng phái đối lập là Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tƣờng Long, Trƣơng Đình Trị đƣợc chấp nhận tham gia chính phủ ngày 01/01/1946. Để tránh những phức tạp nảy sinh, sau khi văn bản Biện pháp hợp tác đƣợc ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cân nhắc rất kỹ và nhất trí đề nghị cải cách Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời để đƣa ngƣời của Việt Quốc và Việt Cách vào tham gia chính phủ; nhất trí để Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ của Việt Cách giữ cƣơng vị Phó Chủ tịch; chấp nhận dành cho Việt Quốc 50 ghế, Việt Cách 20 ghế trong Quốc hội khóa 1 mà không phải thông qua bầu cử Quốc hội. Trong thời gian hòa hoãn với quân Tƣởng,