Hôn nhân và cuộc sống gia đình thời trung cổ ở châu Âu (Thế kỉ V đến thế kỉ XV)

Trong thế giới hôm nay, khoảng cách Đông – Tây đã trở nên gần gũi và nhu cầu hiểu biết lẫn nhau đòi hỏi ở một mức độ tinh tế hơn. Trong những mối quan hệ giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ, những quan hệ về chính trị được giới nghiên cứu quan tâm khá nhiều và khai thác tìm hiểu gần như triệt để. Tuy nhiên những vấn đề khác như kinh tế, văn hóa, tôn giáo cũng là những nội dung cần được chú ý. Trong đó, phải kể đến những nét đặc trưng về văn hóa nói chung và sinh hoạt văn hóa hàng ngày của các cộng đồng dân cư nói riêng. Tìm hiểu về các nước phương Tây, ta không thể không tìm hiểu về chính cuộc sống thường ngày của họ mà trong đó mảng hôn nhân và cuộc sống gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng. Liệu rằng, cư dân phương Tây trong lịch sử đã có những quan niệm như thế nào về tình yêu đôi lứa, về cuộc sống gia đình, vị trí người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, những quan điểm đó có giống hay khác với con người phương Đông?

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hôn nhân và cuộc sống gia đình thời trung cổ ở châu Âu (Thế kỉ V đến thế kỉ XV), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 98 HÔN NHÂN VÀ CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH THỜI TRUNG CỔ Ở CHÂU ÂU (THẾ KỈ V ĐẾN THẾ KỈ XV) Võ Thành Lộc, Dương Thủy Tiên (Sinh viên năm 3, Khoa Lịch sử) GVHD: ThS Nguyễn Thị Trà My Trong thế giới hôm nay, khoảng cách Đông – Tây đã trở nên gần gũi và nhu cầu hiểu biết lẫn nhau đòi hỏi ở một mức độ tinh tế hơn. Trong những mối quan hệ giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ, những quan hệ về chính trị được giới nghiên cứu quan tâm khá nhiều và khai thác tìm hiểu gần như triệt để. Tuy nhiên những vấn đề khác như kinh tế, văn hóa, tôn giáo cũng là những nội dung cần được chú ý. Trong đó, phải kể đến những nét đặc trưng về văn hóa nói chung và sinh hoạt văn hóa hàng ngày của các cộng đồng dân cư nói riêng. Tìm hiểu về các nước phương Tây, ta không thể không tìm hiểu về chính cuộc sống thường ngày của họ mà trong đó mảng hôn nhân và cuộc sống gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng. Liệu rằng, cư dân phương Tây trong lịch sử đã có những quan niệm như thế nào về tình yêu đôi lứa, về cuộc sống gia đình, vị trí người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, những quan điểm đó có giống hay khác với con người phương Đông? 1. Hôn nhân và cuộc sống gia đình ở châu Âu (thế kỉ V – X) 1.1. Hoàn cảnh lịch sử Từ thế kỉ V đến X, châu Âu có bước chuyển ngoặt lớn trong thời Trung cổ. Người German tràn vào cương giới Roma và lập nên những quốc gia tươi trẻ của họ thế kỉ V – VI. Người Hi Lạp gọi những người ngoài đế chế là người Man tộc. Còn người La Mã miêu tả người Man tộc là những người sống du mục, hung dữ, cao to. Chính sự thiên di ngang dọc khắp châu Âu của họ đã tạo nên sự hòa trộn về ngôn ngữ, dòng máu và sự xuất hiện của những tộc người mới ở châu Âu. Khi vào lãnh thổ của Roma, người German đã thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thành lập nhiều vương quốc mới trên lãnh thổ cũ của đế quốc La Mã ở Tây Âu và Bắc Phi, bao gồm vương quốc của người Visigoth, Ostrogoth, Vandal, Frank, Lombard, Anglo-Saxon, Burgundy. Trong quá trình di cư, người German cũng từ bỏ các tôn giáo nguyên thuỷ của mình và tiếp thu Thiên Chúa giáo. Chính sự tiếp thu tôn giáo này đã tác động đến mọi mặt cuộc sống con người trong xã hội châu Âu Trung cổ, trong đó có hôn nhân và cuộc sống gia đình. Người mới dần hòa nhập vào cuộc sống mới ở một xã hội phát triển cao hơn và tiếp thu những gì ưu tú của xã hội cũ. Cuộc sống nay đây mai đó của những tộc người German không còn nữa, họ bắt đầu ổn định, tạo dựng cho mình một cuộc sống mới trên nền một nền văn minh Hi - La rực rỡ đã từng tồn tại. Năm học 2015 - 2016 99 1.2. Quan niệm về tình yêu, hôn nhân trong xã hội châu Âu thế kỉ V – X Vào đầu thời Trung cổ, tình yêu và hôn nhân không gắn liền với nhau. Những cuộc hôn nhân được xem là cao quý thường được sắp xếp bởi các bậc cha mẹ để tăng cường tính liên minh giữa hai gia đình và sự giàu có của mỗi gia đình. Họ quan tâm về lợi ích chính trị và tài chính, chứ không phải là làm thế nào các cặp vợ chồng cảm thấy tốt về nhau. Mặc dù vậy, đối với tinh thần hiệp sĩ, tình yêu lại là một sự gắn kết mật thiết nhưng thường là giữa hiệp sĩ với những người phụ nữ quý tộc, không dành cho những phụ nữ nông dân. Bởi thế đã có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng trong lịch sử ca ngợi về sự thuần khiết, trong trẻo của tình yêu. Vấn đề về hôn nhân trong giai đoạn này cũng thật sự khắt khe bởi những quy ước của giáo lí, đặc biệt là đạo Cơ đốc giáo. Vấn đề hôn nhân không còn là chuyện giữa hai người nam và nữ hay giữa hai gia đình mà còn kèm theo những vấn đề khác như kinh tế và chính trị. Về chính trị, hôn nhân được xem như công cụ đảm bảo mối liên minh tốt đẹp, sự bình yên giữa hai lãnh địa, thậm chí có những cuộc hôn nhân đã được định sẵn từ khi hai người còn nhỏ hay chưa ra đời. Về kinh tế, hôn nhân đưa đến hệ quả lớn về thừa kế gia sản. Ví dụ như một người con gái được thừa kế một vùng lãnh thổ hay một khối lượng tài sản lớn mà một mình cô gái không thể đảm đương hết được, thì cần phải có một người đàn ông uy quyền bên cạnh để bảo vệ cô gái, giúp cô cáng đáng mọi việc. Nhưng trong suốt thời Trung cổ, người con gái có hai sự lựa chọn để thoát khỏi “tội của Eva” đó là trở thành độc thân khi làm những nữ tu hay kết hôn khi đủ 12 tuổi trở đi vì lúc này thể chất của cô gái đã sẵn sàng cho một mối quan hệ tình dục [13]. Đám cưới sẽ được diễn ra tại nhà thờ và nhận được những lời chúc mừng của mọi người đến dự, trang phục cưới cũng phụ thuộc vào từng tầng lớp trong xã hội, với một cặp vợ chồng nông dân thì quần áo cưới sẽ là bộ quần áo tốt nhất mà họ có hoặc có thể được chuẩn bị riêng, còn với những người thuộc tầng lớp trên thì trang phục có phần cầu kì hơn. Màu sắc của áo cưới thường là màu xanh lá cây, màu tượng trưng cho tình yêu của tuổi trẻ, hay màu xanh biểu tượng truyền thống cho sự tinh khiết, còn màu trắng mà ngày nay các cô dâu đều lựa chọn thì thời Trung cổ, nó không bao giờ được chọn vì họ cho rằng đó là màu sắc của tang tóc. Hoa lily và hoa hồng là lựa chọn phổ biến cho các đám cưới và sẽ được rải trên sàn nhà giữa những cây cỏ ở các tiệc cưới. Người phụ nữ được đeo một vòng hoa trên đầu, tục lệ mang theo một bó hoa vẫn chưa xuất hiện thời Trung Cổ [10]. Bên cạnh đó, trong xã hội châu Âu Trung cổ còn tồn tại thứ tình yêu được cho là trái quy luật của tự nhiên và nhận phải sự trừng phạt của Giáo hội, đó là tình yêu đồng giới. Để làm rõ mối quan hệ này, chúng ta hãy trở lại thời kì Hi - La cổ đại, đặc biệt là Hi Lạp. Có thể nói, các thuật ngữ cổ về tình dục đồng giới đều bắt nguồn từ trong thần thoại của Hi Lạp như: Homosexuality (tính dục đồng giới – gốc Hi Lạp “Homos” có nghĩa là giống nhau), Nymphomania (chứng cuồng dâm ở đàn bà – gốc Nymph), Pederasty (tình dục đồng giới nam – gốc paiderastia) Như vậy từ xa xưa thì tình dục đồng giới ở cả nam và nữ đều đã xuất hiện [6;12]. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 100 1.3. Cuộc sống và các mối quan hệ trong gia đình ở xã hội châu Âu thế kỉ V – X Trong thời Trung cổ ở châu Âu, hôn nhân không có gì gọi là tình yêu hay lãng mạn mà đó là một sự sắp đặt. Hôn nhân là sự sắp đặt của hai bên gia đình vì những lợi ích khác nhau. Ai cũng muốn con mình kết hôn với những người có địa vị, giàu có để nhận được những đặc quyền. Người con gái kết hôn, tức là gia đình mất đi một người lao động và vì thế cha cô gái phải có trách nhiệm bồi thường cho chúa đất trước khi cô gái kết hôn và rời khỏi nhà. Đôi vợ chồng kết hôn với nhau không có nghĩa là có thêm nhà mới. Ở châu Âu trung đại, các gia đình luôn gắn kết với nhau, với dòng họ, với mảnh đất mà họ đã sinh ra. Nên chuyện của một người cũng được cả họ quan tâm và “hôn nhân” cũng là một trong số đó. Việc chọn lựa người bạn đời của nhau phải được cả họ đồng ý. Sau khi kết hôn, cặp vợ chồng sẽ về sống chung dưới một mái nhà với nhiều thế hệ khác nhau và thường là nhà của bố mẹ chồng. Tuy nhiên, cặp vợ chồng cũng có thể ở nhà bố mẹ vợ khi nhà bố mẹ vợ không có anh hay em trai. Cuộc sống gia đình cứ thế mà dung nạp thêm những thành viên mới, qua nhiều thế hệ tiếp nhận như vậy, nó sẽ trở thành một “cộng đồng gia đình” bền vững, gắn kết với nhau dưới một mái nhà. Như vậy, chính “cộng đồng gia đình” mới là tế bào của xã hội, chứ không phải gia đình nhỏ của hai người. Người ta thu thuế, đi nghĩa vụ quân sự hay đi dân công cho cộng đồng ấy – nội bộ các thành viên sẽ tự thu xếp với nhau. Trong các gia đình bình dân, chỉ khi cái cộng đồng ấy tan rã – chứ không phải người này hay người kia chết – mới diễn ra cái mà người ta gọi là quyền thừa kế. Nhiều cộng đồng như thế sống êm ấm với nhau dưới một mái nhà trong nhiều thế kỉ. Ở nước Pháp, chỉ sau cách mạng tư sản thì “cộng đồng gia đình” ấy mới có sự thay đổi [4;107]. Trong hôn nhân, sinh nở cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đứa trẻ sinh ra trong gia đình một nông nô dù là gái hay trai đều sẽ trở thành nguồn lao động phục vụ cho lãnh chúa. Đồng thời, xã hội Châu Âu lúc này, tuổi thọ dân số thấp vì người ta kết hôn quá sớm, sinh nở sớm nên chết sớm (trung bình tuổi thọ của nữ dưới 30 tuổi) nên rất cần một lực lượng lao động bổ sung. Cũng theo Thiên Chúa Giáo, mọi con người khi vừa sinh ra đều có tội nên đứa trẻ ngay sau sinh sẽ được rửa tội bằng cách bỏ hết quần áo, nhúng vào chậu nước thánh và lau khô. Trong gia đình Trung cổ, người phụ nữ có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là phụ nữ nông dân. Ngoài thiên chức làm vợ, làm mẹ thì người phụ nữ phải có trách nhiệm chăm lo cho gia đình ấy. Phụ nữ quý tộc có cuộc sống khác phụ nữ nông dân. Cuộc sống hằng ngày của người phụ nữ quý tộc chủ yếu xoay quanh việc ăn, uống, lập kế hoạch cho đám cưới hoặc lễ và thậm chí là cả chuyện phiếm. Người phụ nữ có vai trò quan trọng nhưng địa vị của họ trong gia đình phần lớn lại không tương xứng. Phần đông họ không có tiếng nói và luôn thụ động trong mọi việc, ngay cả chuyện li dị. Sau khi li dị, người phụ nữ không thể sở hữu bất cứ loại tài sản gì, trừ khi họ là góa phụ. Góa phụ có thể thừa kế khi họ có con nhỏ, hoặc nếu quy Năm học 2015 - 2016 101 định đã được thực hiện cho họ thừa kế. Người phụ nữ không thể thừa kế đất từ cha mẹ nếu họ có bất kì anh em nào còn sống. 2. Hôn nhân và cuộc sống gia đình ở châu Âu (thế kỉ XI - XIII) 2.1. Hoàn cảnh lịch sử Vào cuối thế kỉ XI, châu Âu diễn ra cuộc viễn chinh lớn gọi là Thập tự chinh. Thập tự chinh là cuộc hành quân lớn của nhiều nước châu Âu với hình cây thập tự trên áo. Họ hành quân dưới sự hô hào của Giáo hoàng Roma nhằm đánh đuổi người Seljuk Turks ra khỏi vùng đất thánh Giêrudalem (Palestin ngày nay). Nhưng nguyên nhân sâu xa của những cuộc Viễn chinh thập tự này bắt nguồn từ tham vọng của tòa thánh Roma và phong kiến Tây Âu đối với những vùng đất giàu có ở Palestin và vùng Tây Nam Á ngày nay. Những cuộc Thập tự chinh dài ngày, tốn nhiều thời gian, của cải và hi sinh rất nhiều người nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Chính sự thất bại ấy đã làm biến đổi bộ mặt châu Âu trung đại. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIII, kinh tế lãnh địa và kinh tế hàng hóa cùng song song tồn tại (nhưng vẫn lệ thuộc lãnh địa). Tây Âu giữ được một lợi thế là tư hữu hoàn toàn và chính sự thừa nhận chế độ tư hữu hoàn toàn này đã quyết định sự phát triển của Tây Âu thời Trung đại [11]. Sự hứng khởi của các thành thị đã tác động, làm thay đổi đến đời sống chính trị và văn hóa Tây Âu lúc bấy giờ. Và dĩ nhiên, nó cũng góp phần chi phối quan niệm về tình yêu, hôn nhân và gia đình của cư dân phương Tây trung đại thế kỉ XI - XIII. 2.2. Quan niệm về tình yêu, hôn nhân trong xã hội châu Âu thế kỉ XI – XIII Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIII, những tộc người German xưa kia đã kịp hòa mình vào nền văn minh mà người Hi Lạp, La Mã để lại. Sau một thời gian thích nghi, họ đã bắt đầu chú ý hơn đến đời sống hàng ngày, gia đình đóng vai trò là trung tâm giáo dục, chính trị và tôn giáo của tầng lớp thượng lưu, hôn nhân chủ yếu được xem như là công cụ để tham gia một bước về phía trước trong thang thứ bậc và chức năng cung cấp cho gia đình các mối liên minh mạnh mẽ. Trong thế kỉ XII, tình yêu lãng mạn đã trở thành gần như phổ biến, nguồn gốc của nó còn mơ hồ, có lẽ xuất phát từ các tác phẩm của Ovid (một nhà thơ sống thời La Mã cổ đại), nó tạo ra những giá trị kỉ niệm và thường được khám phá trong bài hát, những câu chuyện - mà ta chỉ cần nhìn vào những bộ phim hiện đại và âm nhạc để thấy di sản vẫn còn tồn tại với chúng ta. Ví như câu chuyện “Tristan và Iseult” được đánh giá là một chuyện hay nhất về tình yêu thời Trung cổ bởi chuyện kể về một mối tình đầy lãng mạn giữa chàng hiệp sĩ Tristan thay chú mình là vua Mark ở xứ Cornwall lên đường đến Ireland cầu hôn công chúa Iseult. Trong những thế kỉ trước, giáo hội nắm trong tay quyền kiểm soát mọi mặt trong cuộc sống, trong đó có cả hôn nhân, quan hệ vợ chồng. Bước sang thế kỉ XII, một loạt các cải cách giáo hội được đưa ra, từ một quan điểm khá khắc khe của Thiên Chúa giáo Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 102 đã bắt đầu đặt trọng tâm mới về nhân loại của Chúa Kitô, quan hệ yêu đương hay vợ chồng đã được nới lỏng hơn trước. Cuộc sống tinh thần của người dân bình thường đã được công nhận và người dân được khuyến khích để có một mối quan hệ tình cảm riêng tư như tình yêu với Thiên Chúa. Song bên cạnh đó, một cuộc hôn nhân vì mục đích kinh tế hay chính trị vẫn được xem là phổ biến trong xã hội. * Vấn đề tình dục và tình dục đồng giới Bất cứ ai coi trọng luân lí về Ki-tô giáo, quan hệ tình dục không phải là một lựa chọn. Độc thân là cách lí tưởng để tiến hành cuộc sống và quan hệ tình dục đã được tha thứ chỉ như một phần của hôn nhân. Trước hôn nhân hay ngoài hôn nhân, quan hệ tình dục là một nguy cơ nghiêm trọng. Các linh mục được yêu cầu phải báo tội ngoại tình và những người này sẽ phải đền tội cho đến chết. Trong thời kì này, dương vật giả đã bắt đầu được sử dụng. Phụ nữ đã là người sử dụng dương vật giả và đây cũng là một trong những tội lỗi được Giáo hội quy định. Dương vật giả không thật sự được sử dụng phổ biến cho đến thời Phục hưng. Lời giải thích huyền ảo về nguồn gốc của dương vật giả là một ổ bánh dài nhỏ của bánh mì với hương vị thì là [12]. Mại dâm phát triển mạnh trong giai đoàn này khi các thành thị mọc lên ngày càng nhiều, Giáo hội không chấp nhận nó. Ở các thành phố lớn, gái mại dâm có thể thực hành nghề nặc danh và nó được coi là một nghề lương thiện và cần thiết. Trong một thời gian, Giáo hội đã chấp nhận mại dâm. Nó được coi như để ngăn chặn ngoại tình và đồng tính luyến ái trên quy mô lớn hơn. Thánh Thomas Aquinas đã viết: “Nếu mại dâm đã bị dập tắt, theo lòng ham muốn bất cẩn sẽ lật đổ xã hội” [11]. Nếu người đàn ông không thể quan hệ tình dục, Giáo hội sẽ cho người đến để kiểm tra. Giáo hội sẽ mang một nhóm được gọi là “thám tử tư” – cô thôn nữ khôn ngoan sẽ kiểm tra dương vật của chồng và đánh giá sức khỏe để xem là có quan hệ tình dục được hay không. Nếu dương vật bị biến dạng hay vì một lí do nào đó mà không quan hệ tình dục được thì cặp vợ chồng sẽ được tách ra (li hôn). Theo những tài liệu giáo lí thời kì này, Giáo hội Thiên Chúa coi đồng tính luyến ái là “hành vi chống lại tự nhiên” và cần phải bị cấm đoán triệt để. Từ khoảng thế kỉ XII, nhà thờ bắt đầu áp dụng những hình phạt cực kì nghiệt ngã cho những kẻ mắc tội lỗi này. Họ có thể bị thiêu sống, bị tra tấn tới chết hoặc nhốt vào lồng, treo trên cao và bỏ đói cho đến chết. Hình phạt cho “tội” đồng tính luyến ái rất nghiêm ngặt. Ở thế kỉ XIII, nếu vi phạm lần đầu sẽ bị cắt bỏ tinh hoàn, làn thứ hai sẽ bị phanh thây, còn lần thứ ba là bị thiêu. Còn với đồng tính nữ cũng bị trừng phạt nghiêm ngặt và cũng sẽ bị thiêu nếu phạm tội lần thứ ba. Năm học 2015 - 2016 103 2.3. Cuộc sống và các mối quan hệ trong gia đình ở xã hội châu Âu thế kỉ XI – XIII Từ thế kỉ XI –X III, cuộc sống của con người có phần nhẹ nhàng hơn, con người nhanh chóng xây dựng gia đình của riêng mình. Và cũng chính giai đoạn này, những cuộc Thập tự chinh theo lời kêu gọi của Tòa thánh Roma đến Vùng đất thánh Giesuzalem kết thúc với nhiều thay đổi. Đặc biệt là dân số châu Âu giảm xuống do những cuộc hành quân xa xôi, kéo dài này mang lại. Để bù đắp dân số, sinh con được khuyến khích, tỉ lệ sinh ngày càng tăng. Chính vì vậy, đứa trẻ ra đời được chào đón một cách hoan hỉ. Ngay các gia đình đông con cũng không ngoại lệ. Nhà vua nêu gương trước: Saint Louis có 10 anh chị em, mặc dù mẹ vua ở góa từ lúc còn trẻ. Bản thân nhà vua có 11 con với vợ là hoàng hậu Marguerite de Provence. Con trai là Philippe III chỉ có 6 con; Isabeau de Baviere sinh 12 con, dù nghe nói tất cả không phải là con chính thống. Lí lẽ và thực tế đi đôi, Thánh Thomas d’Aquin nói: “Gia đình nào không nhung nhúc trẻ con không phải là gia đình hoàn hảo” [4; 79]. Bên cạnh đó, vào thời gian này chế độ đa thê đã bắt đầu xuất hiện nhiều. Trong hoàn cảnh dân số bị tác động dữ dội do có quá nhiều người tử vong, người ta muốn dựa vào đa thê nhằm hi vọng gia tăng số con cái có được và tục này càng được áp dụng khi người đàn ông có nhiều tài sản và quyền lực. Đa thê chiếm ưu thế ngay chính tại nhà của những vương hầu, tự hào là những tín đồ Ki-tô giáo tốt. Đa thê không được Giáo hội chấp nhận nhưng vẫn tồn tại và kéo dài đến tận thế kỉ XII mới kết thúc, ít ra là trong giới quý tộc. Và tục lệ này không chỉ giới hạn nơi người Normand và người Saxon: Phippe Đệ nhất vào thế kỉ XI, Philip Auguste vào thế kỉ XII cũng có tình nhân nhưng chưa bao giờ được Giáo hoàng chấp nhận [3; 144]. 3. Hôn nhân và cuộc sống gia đình ở châu Âu (thế kỉ XIV - XV) 3.1. Hoàn cảnh lịch sử Bước sang thế kỉ XIV - XV châu Âu có nhiều biến đổi quan trọng, đặc biệt là khu vực Tây Âu. Thời kì này, thành thị mới tách ra khỏi lãnh địa, nền kinh tế hàng hóa phát triển thay cho nền kinh tế lãnh địa, tức là thay địa tô vật sang địa tô tiền. Từ đây, tầng lớp lãnh chúa phong kiến nghèo đi còn tầng lớp thị dân thì giàu có lên và đời sống xã hội, văn hóa, chính trị bắt đầu có những chuyển biến mới. Bên cạnh đó ở Tây Âu nói chung, chế độ phong kiến đang phát triển từ chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền. Quá trình ấy diễn ra tương đối sớm ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha nhưng tiêu biểu vẫn là nước Pháp. Trong thời gian này, châu Âu xuất hiện một bệnh dịch với tên gọi cái chết đen (Black Death). Cái chết đen là một đại dịch xảy ra ở châu Á và châu Âu mà đỉnh điểm là ở châu Âu vào thế kỉ XIV. Sự tàn phá của cái chết đen đã dẫn đến nhiều thay đổi trong xã hội châu Âu như sự ra đời của nhiều tôn giáo mới hay sự chuyển đổi về cơ bản của kinh tế và xã hội châu Âu, tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc tới tiến trình lịch sử của Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 104 khu vực này. Sau đại dịch này, ước tính châu Âu phải mất 150 năm để phục hồi dân số như trước thời đại dịch. 3.2. Quan niệm về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong xã hội châu Âu thế kỉ XIV – XV Bước sang thế kỉ XIV - XV quan niệm về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong xã hội trung cổ châu Âu có sự thay đổi. Cái chết đen đã làm lung lay lòng tin của con người với Ki-tô giáo vì trong đại dịch họ chỉ biết cầu nguyện Thiên Chúa nhưng kết quả là cái chết vẫn đến với họ. Sự chi phối của Giáo hội đối với người dân ngày càng giảm sút và về nhiều mặt sự quản lí của Giáo hội không còn chặt chẽ như trước, trong đó có hôn nhân. Bên cạnh đó, một số nghi thức cưới, hỏi trong thời kì này cũng có sự thay đổi. Sự thay đổi ấy thể hiện qua những lễ hỏi, công khai hóa toàn bộ hợp đồng cam kết hôn ước giữa hai gia đình, nghi thức đám cưới và nó sẽ trở thành khuôn mẫu cho những nghi lễ cưới hỏi ngày nay. Và trong giai đoạn này, việc tiến đến hôn nhân và nghi thức đám cưới của quý tộc, đại lãnh chúa hay nhà vua và nông dân cũng có sự khác nhau. Đầu tiên, đó là những cuộc hôn nhân của các gia đình quý tộc. Một người đã tham dự cuộc tiếp xúc hôn nhân của một gia đình quý tộc thế kỉ XIV ghi lại (đây có thể là một cảnh của đời sống tỉnh lẻ): “Một lần, người ta nói với tôi là tôi sẽ lấy một cô gái quý tộc xinh đẹp có cha và mẹ. Lãnh chúa sẽ đưa tôi đến gặp cô ấy. Khi chúng tôi đến đó, mọi người đón tiếp rất thân mật, niềm nở. Tôi nhìn cô gái được giới thiệu cho tôi và hỏi rất nhiều điều để hiểu con người cô. Tôi nói với cô ta bằng giọng mềm mỏng của một tù nhân: “Thưa tiểu thư, tôi mong được là tù nhân của cô hơn là tù nhân của những người khác và tôi nghĩ rằng nhà tù của cô sẽ không khắc nghiệt hơn nhà tù của người Anh”. Tiểu thư đó trả lời tôi rằng cô chưa thấy người cô muốn bỏ tù. Lúc đó, tôi hỏi cô liệu cô có bỏ tù anh ta không, và cô ấy trả lời là không, rằng cô sẽ yêu quý anh ta như chính bản thân mình. Và tôi nói với cô ấy rằng người đàn ông đó sẽ rất hạnh phúc khi ở trong một nhà tù dịu dàng và cao quý đến thế. Tôi sẽ nói gì với các ngài ư? Tiểu thư đó có khiếu ăn nói và theo những lời của