Hướng dẫn áp dụng UCP600

UCP là viết tắt của “The Uniform Custom and Practice for Documentary Credits” (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ). Tín dụng thư (Letter of Credit) là phương thức thanh toán phổ biến và hiệu quả trong các giao dịch thương mại quốc tế. Trong hơn 70 năm qua, phương thức thanh toán này được các doanh nghiệp trên toàn cầu áp dụng theo các quy định tại Quy tắc Thực hành thống nhất về Tín dụng thư chứng từ (UCP) do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành. Do vậy, UCP được coi là cẩm nang cho các doanh nghiệp trong hoạt động thanh toán quốc tế.Sau 03 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006, Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã thông qua Bản Quy tắc Thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ mới (UCP600), phiên bản thứ 7, thay thế cho Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ cũ (UCP 500) và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.

doc5 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2748 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hướng dẫn áp dụng UCP600, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hướng dẫn áp dụng UCP600 UCP là viết tắt của “The Uniform Custom and Practice for Documentary Credits” (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ).   Tín dụng thư (Letter of Credit) là phương thức thanh toán phổ biến và hiệu quả trong các giao dịch thương mại quốc tế. Trong hơn 70 năm qua, phương thức thanh toán này được các doanh nghiệp trên toàn cầu áp dụng theo các quy định tại Quy tắc Thực hành thống nhất về Tín dụng thư chứng từ (UCP) do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành. Do vậy, UCP được coi là cẩm nang cho các doanh nghiệp trong hoạt động thanh toán quốc tế.Sau 03 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006, Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã thông qua Bản Quy tắc Thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ mới (UCP600), phiên bản thứ 7, thay thế cho Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ cũ (UCP 500) và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Qui tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ UCP 600 Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và những vấn đề cần quan tâm theo quy định của UCP 600 Tháng 5 năm 2003, Phòng Thương mại quốc tế đã ủy quyền cho Ủy ban Kỹ thuật và Tập quán ngân hàng triển khai việc sửa đổi bản quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, ấn phẩm ICC số 500 (gọi tắt là UCP 500). Mục đích của việc sửa đổi UCP 500 là phản ánh được những thay đổi và phát triển các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, vận tải và bảo hiểm. Bên cạnh đó là rà soát lại ngôn từ, hành văn trong UCP nhằm tránh những tranh chấp phát sinh khi ứng dụng và giải thích trên thực tế. Sau hơn 3 năm khảo sát, phân tích, rà soát, tranh luận và dung hòa giữa các thành viên của nhóm soạn thảo Ủy ban Ngân hàng và các ủy ban quốc gia có liên quan của ICC, ấn phẩm mới ICC số 600 đã ra đời – UCP 600. Nội dung UCP 600 đề cập tới nhiều vấn đề, bài viết này đề cập tới chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và những vấn đề cần quan tâm theo quy định của UCP 600. Theo quy định của UCP 600, những vấn đề cần quan tâm tới chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cụ thể như sau: Các loại chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển UCP 600 đã chia chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển thành 3 loại: - Vận đơn đường biển (Bill of Lading) - Giấy gửi hàng bằng đường biển không lưu thông (Non-Negotiable Seawaybill) - Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (Charter Pary Bill of Lading) Như vậy khi gửi hàng bằng đường biển, tùy theo yêu cầu của tín dụng chứng từ, các loại chứng từ trên đây đều được ngân hàng coi là chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và chấp nhận để thanh toán. Hình thức của chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển có thể phát hành dưới hai hình thức: - Chứng từ giấy: Đối với chứng từ giấy thì bao gồm 2 mặt: mặt 1 sẽ chứa đựng những nội dung theo quy định, mặt 2 chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở. - Chứng từ điện tử: Đối với chứng từ điện tử, UCP 600 không đề cập trong nội dung, mà sẽ có bản phụ trương hướng dẫn cụ thể kèm theo. Nếu phát hành dưới dạng điện tử thì không bao gồm 2 mặt mà bao gồm 2 bộ phận hợp thành: bộ phận thứ nhất gọi là chứng từ vận đơn điện tử (Electronic Bill of Lading text) và bộ phận thứ hai gọi là trang đăng ký chuyển đổi. Song phát hành dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo những nội dung được quy định trong UCP 600. Nội dung của chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển Tên gọi của chứng từ Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cho dù được gọi như thế nào, UCP 600 không quan tâm, miễn là nội dung của chứng từ đáp ứng những quy định của UCP. Ví dụ: Một chứng từ khi xuất trình tại ngân hàng có tiêu đề: “Bill of Lading or Seawaybill for Combined transport Shipment or port to port Shipment” chưa phải là cơ sở để ngân hàng chấp nhận hay từ chối, mà việc chấp nhận hay từ chối sẽ phụ thuộc vào nội dung chứng từ thể hiện theo quy định. Người phát hành và người ký chứng từ + Người phát hành chứng từ: Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, phải chỉ rõ tên người chuyên chở (indicate the name of the carrier), nhưng không được thể hiện và ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (contain no indication that it is subject to a charter party). Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, không cần chỉ rõ tên người chuyên chở, nhưng có ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (containing an indication that it is subject to charter party). + Người ký chứng từ: Theo UCP 600, người ký các chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cụ thể như sau: Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, người ký chứng từ có thể là người chuyên chở hay đại lý hoặc người thay mặt người chuyên chở; thuyền trưởng hay đại lý hoặc người thay mặt thuyền trưởng. Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, người ký chứng từ có khác đôi chút so với người ký chứng từ trên vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển. Cụ thể, người ký vận đơn theo hợp đồng thuê tàu có thể là thuyền trưởng hay đại lý hoặc người thay mặt thuyền trưởng; chủ tàu hay đại lý hoặc người thay mặt chủ tàu; người thuê tàu hay đại lý hoặc người thay mặt người thuê tàu (người thuê tàu thường gọi là người chuyên chở). Người ký chứng từ, khi ký phải thể hiện rõ tư cách pháp lý của mình. Riêng đối với đại lý, khi ký, ngoài việc thể hiện là đại lý, còn phải ghi rõ đại lý cho ai, nghĩa là phải ghi rõ tên của người mà mình là đại lý cho họ. Xếp hàng lên tàu Trên các chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, UCP 600 quy định rất cụ thể về hàng xếp lên tàu. Chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ hàng hóa đã được xếp lên con tàu chỉ định tại cảng giao hàng quy định trong thư tín dụng (indicate that the goods have been shipped on board a name vessel at the port of loading stated in the credit). Nội dung này trên chứng từ có thể được thể hiện bằng hai cách, hoặc là một cụm từ in sẵn (pre-printed wording) hoặc là một ghi chú là hàng đã được xếp lên tàu và có ghi ngày xếp hàng lên tàu (an onboard notation indicating the date on wich the goods have been shipped in board). Ngày giao hàng Theo quy định của UCP 600 thì ngày phát hành vận đơn sẽ được coi là ngày giao hàng (the date of issuance of the Bill of Lading will be deemed to be the date of shipment), trừ khi trên chứng từ vận chuyển đã có ghi chú ngày xếp hàng lên tàu thì ngày xếp hàng lên tàu sẽ được coi là ngày giao hàng (the date stated in the on board notation will be deemed to be the date of shipment). Như vậy, theo quy định của UCP 600, ngày xếp hàng lên tàu chính là ngày giao hàng. Còn ngày phát hành chứng từ vận chuyển sẽ được coi như ngày giao hàng nếu trên chứng từ không có ghi chú khác về ngày xếp hàng lên tàu. Trên thực tế cũng có những trường hợp ngày phát hành chứng từ vận chuyển có thể trước hoặc sau ngày xếp hàng lên tàu – Trong những trường hợp này không được coi ngày phát hành chứng từ vận chuyển là ngày giao hàng. Hành trình của hàng hóa Theo UCP 600, hành trình của hàng hóa phải được thể hiện cụ thể trên chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. Nghĩa là trên chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ chuyến hàng được giao từ cảng xếp hàng tới cảng dỡ hàng đã được quy định trong thư tín dụng (indicate shipment from the port of loading to the port of discharge state in the credit). Còn trường hợp trên chứng từ vận chuyển chưa xác định rõ được cảng xếp hoặc ghi cảng dự định xếp hàng thì khi xếp hàng lên tàu phải ghi chú rõ tên cảng xếp như quy định trong tín dụng, ngày xếp hàng lên tàu và tên tàu hàng đã xếp lên. Chuyển tải Vấn đề chuyển tải được UCP 600 đề cập đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Ở Điều 20 và 21 của UCP 600, khoản b và c sau khi đưa ra khái niệm về chuyển tải, đã quy định là trên chứng từ vận chuyển có thể ghi hàng hóa sẽ hoặc có thể chuyển tải miễn là toàn bộ hành trình vận chuyển chỉ sử dụng một và cùng một chứng từ. Nếu hàng hóa được giao bằng container, xe moóc hoặc sà lan tàu LASH ghi trên chứng từ, thì ngay cả khi tín dụng thư cấm chuyển tải (even if the credit prohibits transhipment) các ngân hàng vẫn có thể chấp nhận một chứng từ vận chuyển ghi việc chuyển tải sẽ hoặc có thể xảy ra (transhipment will of may take place). Chứng từ vận chuyển gốc Trong chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, khi nhận hàng để chở, người nhận hàng để chở thường phát hành cho người gửi hàng 01 hoặc 01 bộ chứng từ vận chuyển gốc - Ở nội dung này, UCP 600 cũng quy định cụ thể: Khi xuất trình chứng từ vận chuyển gốc tại ngân hàng có thể xuất trình một bản gốc duy nhất nếu phát hành một bản gốc, còn phát hành một bộ thì phải xuất trình trọn bộ chứng từ gốc đã phát hành. Điều kiện và điều khoản chuyên chở Với điều kiện và điều khoản chuyên chở, UCP 600 chỉ đề cập đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu: + Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, UCP 600 quy định “không thể hiện phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu”. Vì vậy, trong nội dung của hai chứng từ này phải “chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở hoặc phải dẫn chiếu tới các nguồn khác chứa đựng những điều kiện và điều khoản chuyên chở (trường hợp vận đơn hay giấy gửi hàng mặt sau để trắng). Về nội dung của các điều kiện và điều khoản chuyên chở, theo quy định của UCP 600, thì các ngân hàng không có trách nhiệm kiểm tra, xem xét. + Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, UCP 600 quy định có ghi trên đó là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu, mà hợp đồng thuê tàu đã đầy đủ các điều kiện và điều khoản chuyên chở, cho nên UCP 600 không đề cập tới điều kiện và điều khoản chuyên chở trên vận đơn. Về nội dung của hợp đồng thuê tàu, các ngân hàng cũng không có trách nhiệm kiểm tra và xem xét ngay cả khi hợp đồng thuê tàu phải xuất trình theo yêu cầu của thư tín dụng… Trên đây là những quy định về chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và những nội dung cơ bản cần quan tâm trong chứng từ vận chuyển đường biển khi xuất trình tại ngân hàng theo UCP 600. PGS.TS. Nguyễn Như Tiến Đại học Ngoại thương
Tài liệu liên quan