Giáo dục là một quyền con người của trẻ em gái và trẻ
em trai, phụ nữ và nam giới. Điều 26 của Tuyên bố toàn
cầu về quyền con người, được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua năm 1948 và Mục tiêu 5 của Các Mục
tiêu về Giáo dục cho mọi người (EFA) ghi rõ: “Đến năm
2005 loại bỏ được sự mất cân bằng giới trong giáo dục
tiểu học và trung học” và “Đến năm 2015 đạt được bình
đẳng giới trong giáo dục ở mọi cấp học”.
 Theo Báo cáo Giám sát Toàn cầu về Giáo dục cho mọi người năm
2012 và Viện Thống kê của UNESCO - UIS 2013, từ năm 1999 đến
năm 2010, số lượng các em gái bỏ học trong độ tuổi tiểu học
giảm đi một nửa và trong độ tuổi trung học đã giảm hơn một
phần ba. Cũng theo báo cáo này, trên toàn thế giới, có 101/161
nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục tiểu học (GDTH) và
66/160 nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục trung học
cơ sở (THCS). Thành tích học tập của trẻ em gái đã được cải thiện,
đôi khi còn cao hơn trẻ em trai về khả năng ghi nhớ, hoàn thành,
chuyển cấp học.
 Tuy nhiên, cũng theo báo cáo trên, thế giới vẫn còn có sự mất cân
bằng giới nghiêm trọng. Năm 2005, có 94/149 quốc gia không
đạt được mục tiêu cân bằng giới. Trẻ em không được đến trường
phần lớn là trẻ em gái, đặc biệt ở khu vực Nam và Tây Á. Người
lớn không biết chữ phần lớn là phụ nữ (trong số 781 triệu người
lớn không biết chữ, có tới 2/3 là phụ nữ) - một tỷ lệ không đổi
trong suốt 20 năm. Trẻ em trai cũng bị ảnh hưởng, các em bị đối
xử bất lợi hơn trong giáo dục THCS, đặc biệt tại Đông Á và Thái
Bình Dương. Giáo dục là một nghề được nữ tính hóa, nhưng giáo
viên nữ chiếm phần lớn ở các cấp giáo dục bậc thấp, trong khi vị1
trí quản lí trong các hệ thống giáo dục/trường học phần lớn lại do
nam giới đảm trách.
 Phân tích từ Tài liệu tập huấn của UNESCO về nhạy cảm giới (2002)
cho thấy, hầu hết các chương trình giáo dục cơ bản còn xem nhẹ
vai trò phụ nữ và cho rằng điều đó là hiển nhiên, phụ nữ thường
được nhìn nhận như là những người thụ hưởng thụ động, các kỹ
năng truyền thống của nữ giới được xem là ít giá trị, không đáp
ứng được nhu cầu của thị trường. Tại gia đình, bố mẹ chưa quan
tâm đúng mực tới giáo dục dành cho trẻ em gái, ở nhiều nơi, trẻ
em gái thường phải ở nhà để làm việc nhà hoặc kiếm tiền cho gia
đình. Ở một số địa phương, còn quan điểm cho rằng trẻ em gái
được đi học sẽ có ít cơ hội lấy chồng và không đủ kỹ năng làm vợ
hoặc làm mẹ theo nghĩa truyền thống.
 Ở môi trường học tập, vẫn còn những giáo viên ưu tiên trẻ em trai
trong giờ học. Chương trình và tài liệu học tập vẫn tồn tại quan
điểm phụ nữ là những người sống phụ thuộc và chỉ phù hợp với
công việc gia đình, có vị trí yếu thế hơn nam giới. Chương trình
giáo dục thường tập trung chủ yếu vào việc giáo dục trẻ em gái
thành những người vợ và người mẹ, không coi trọng vai trò của
phụ nữ như là những người làm kinh tế, hay nắm giữ các vị trí
quản lý quan trọng trong xã hội. Nội dung chương trình thiếu yếu
tố giới dẫn đến hạn chế năng lực của phụ nữ và không khuyến
khích nữ giới đặt câu hỏi về điều kiện sống của mình. Sách giáo
khoa thường bao gồm các khuôn mẫu về nam và nữ, vai trò, trách
nhiệm và giá trị của họ. Học sinh, giáo viên, các nhà quản lý và các
bậc phụ huynh chưa ý thức được là có một số hình ảnh, nội dung
học tập mang tính kỳ thị giới.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 68 trang
68 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 939 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hướng dẫn lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỒNG GHÉP GIỚI 
VÀO CHƯƠNG TRÌNH,
SÁCH GIÁO KHOA 
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nước CHXHCN Việt Nam
Ministry of Education and Training
S.R. Viet Nam
Tổ chức Giáo dục
Khoa học và Văn hoá
của Liên hợp quốc
United Nations
Education, Scientfic and
Cultural Organization
Sáng kiến Bình đẳng giới và Giáo dục cho trẻ em gái tại Việt Nam: 
“Trao quyền cho trẻ em gái và phụ nữ vì một xã hội công bằng hơn”
Hà Nội, THáNG 4/2016
SỰ
 C
ẦN
 T
HI
ẾT
 L
ỒN
G 
GH
ÉP
 G
IỚ
I V
ÀO
 C
HƯ
ƠN
G 
TR
ÌN
H,
 S
ÁC
H 
GI
ÁO
 K
HO
A 
GI
ÁO
 D
ỤC
 P
HỔ
 T
HÔ
NG
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
	 	 	 DANH	MỤC	TỪ	VIẾT	TÁT
CT	 	 	 Chương	trình
GDĐT	 Giáo	dục	và	Đào	tạo
GDMN	 Giáo	dục	mầm	non
GDPT	 Giáo	dục	phổ	thông
GDTH	 Giáo	dục	tiểu	học
GPI	 	 Chỉ	số	bình	đẳng	giới	
SGK	 	 Sách	giáo	khoa
THCS	 Trung	học	cơ	sở
THPT	 	 Trung	học	phổ	thông
UNESCO	 Tổ	chức	Giáo	dục,	Khoa	học	và	Văn	hoá	
	 	 của	Liên	hợp	quốc
MỤC LỤC
Trang
GIỚI THIỆU 8
GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ 10
PHẦN I. 
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CT, SGK GDPT 13
1. Bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở Việt Nam 15
2. Thực trạng lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT 17
3. Ý nghĩa của việc lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT mới 23
4. Vai trò của giáo dục và SGK trong thúc đẩy bình đẳng giới 24
PHẦN II. 
CÁC CẤP ĐỘ, CÁC BƯỚC VÀ CÁC CÔNG CỤ LỒNG GHÉP GIỚI 
VÀO CT, SGK GDPT 26
1. Thế nào là lồng ghép giới? 27
2. Các cấp độ lồng ghép giới 28
3. Các bước lồng ghép giới 28
4. Công cụ lồng ghép giới 29
PHẦN III. 
MỘT SỐ LƯU Ý KHI THỰC HIỆN LỒNG GHÉP GIỚI 
VÀO CT, SGK GDPT 40
1. Lưu ý chung khi thực hiện lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT 41
2. Lưu ý cụ thể khi thực hiện lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT 43
PHẦN IV. 
CÁC PHỤ LỤC 49
Phụ lục 1. Góc nhìn giới trong một số SGK hiện hành của Việt Nam 50
Phụ lục 2. Đề cương báo cáo kết quả phân tích giới 63
Phụ lục 3. Tài liệu tham khảo/nguồn tham khảo 66
GIỚI THIỆU
	 Trong	khuôn	khổ	Sáng	kiến	của	Bộ	GDĐT	và	Tổ	chức	
Giáo	dục,	Khoa	học	và	Văn	hóa	của	Liên	hợp	quốc	
(UNESCO)	về	Bình	đẳng	giới	và	Giáo	dục	cho	trẻ	em	
gái	tại	Việt	Nam:	Trao	quyền	cho	trẻ	em	gái	và	phụ	
nữ	vì	một	xã	hội	công	bằng	hơn”,	Bộ	phận	thường	
trực	Đổi	mới	CT,	SGK	GDPT	thuộc	Bộ	GDĐT,	với	sự	hỗ	
trợ	kỹ	thuật	của	UNESCO	và	các	chuyên	gia	tư	vấn	
đã	xây	dựng	Tài	liệu	hướng	dẫn	Lồng	ghép	giới	vào	
CT,	SGK	GDPT	(Tài	liệu	hướng	dẫn).
	 Tài	 liệu	 hướng	 dẫn	 này	 được	 biên	 soạn	 trong	 bối	
cảnh	Việt	Nam	tiếp	tục	cam	kết	thực	hiện	các	Mục	
tiêu	 phát	 triển	 bền	 vững	 (SDGs)	 về	Giáo	 dục	 chất	
lượng	 (Mục	 tiêu	 số	4)	 và	Bình	đẳng	giới	 (Mục	 tiêu	
số	5)	giai	đoạn	2015	-	2030	của	Liên	hợp	quốc,	cũng	
như	đang	tổ	chức	triển	khai	thực	hiện	Nghị	quyết	số	
88/2014/QH13	ngày	28/11/2014	của	Quốc	hội	khóa	
XIII	về	Đổi	mới	CT,	SGK	GDPT	và	Quyết	định	số	404/
QĐ-TTg	ngày	27/3/2015	của	Thủ	 tướng	Chính	phủ	
phê	duyệt	đề	án	Đổi	mới	CT,	SGK	GDPT.
	 Các	 mẫu	 biểu	 và	 bảng	 kiểm	 trong	 Tài	 liệu	 hướng	
dẫn	này	được	chọn	lọc	chủ	yếu	từ	hai	tài	liệu	“Thúc	
đẩy	bình	đẳng	giới	trong	giáo	dục”	(GENIA	-	UNESCO	
2009)	và	“Thúc	đẩy	bình	đẳng	giới	thông	qua	sách	
giáo	khoa	 -	Hướng	dẫn	phương	pháp	 luận”	
(UNESCO	 2009).	 Tài	 liệu	 hướng	
dẫn	 cũng	 được	 hoàn	 thiện	 trên	
cơ	 sở	 tiếp	 thu	ý	kiến	đóng	góp	
của	các	đại	biểu	đến	từ	các	trường	đại	học,	cao	đẳng	
sư	phạm,	các	Sở	GDĐT,	Học	viện	Quản	lý	giáo	dục,	
Viện	Khoa	học	Giáo	dục	Việt	Nam,	các	Vụ/Cục	 liên	
quan	 thuộc	 Bộ	 GDĐT	 tham	 dự	 hai	 khóa	 tập	 huấn	
được	 tổ	 chức	 tại	 Hà	 Nội	 (ngày	 07-08/12/2015)	 và	
thành	 phố	 Hồ	 Chí	 Minh	 (ngày	 09-10/12/2015)	 về	
Lồng	ghép	giới	vào	CT,	SGK	GDPT	và	Hội	thảo	tham	
vấn	 ngày	 26/01/2016	 tại	 Hà	 Nội,	 cũng	 như	 ý	 kiến	
đóng	góp	của	các	nhà	khoa	học,	nhà	giáo,	chuyên	
	gia	giáo	dục	và	giới.	
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
	 Tài	 liệu	hướng	dẫn	được	 chia	 thành	3	phần	 chính,	
bao	gồm:	
	 Phần I. Sự	cần	thiết	lồng	ghép	giới	vào	CT,	SGK	
GDPT.
	 Phần II.	 Các	 cấp	độ,	 các	bước	 và	 các	 công	 cụ	
lồng	ghép	giới	vào	CT,	SGK	GDPT.
	 Phần III. Một	số	lưu	ý	khi	thực	hiện	lồng	ghép	
giới	vào	CT,	SGK	GDPT.
	 Ngoài	 ra,	 còn	 có	 các	 phụ	 lục	 để	 cung	 cấp	 thêm	 các	
thông	tin,	ví	dụ	minh	hoạ	cụ	thể,	mẫu	báo	cáo	kết	quả	
phân	tích	giới	và	danh	mục	các	tài	liệu	tham	khảo.
	 Mục	tiêu	của	Tài	liệu	hướng	dẫn	này	nhằm	cung	cấp	
thông	 tin	và	 trang	bị	một	số	kỹ	năng	cần	 thiết	cho	
các	cán	bộ	trong	ngành	Giáo	dục	nói	chung	và	các	
thành	viên	Ban	xây	dựng	CT,	Ban	biên	soạn	SGK,	Hội	
đồng	quốc	gia	thẩm	định	CT,	SGK	nói	riêng	cách	thức	
nhận	biết	định	kiến	và	khuôn	mẫu	giới	tồn	tại	trong	
CT,	SGK	hiện	hành,	để	đưa	ra	các	quyết	định	phù	hợp,	
đảm	 bảo	 tốt	 nhất	 việc	 lồng	 ghép	 giới	
trong	 quá	 trình	 xây	 dựng	 CT,	 biên	
soạn	SGK	mới	và	thẩm	định	CT,	SGK	
mới,	cũng	như	trong	quá	trình	dạy	
học	ở	các	cấp	học	của	GDPT,	giúp	
tăng	cường	bình	đẳng	giới	 trong	
CT,	SGK	GDPT	của	Việt	Nam.
	 Tài	 liệu	 hướng	 dẫn	 này	 được	
thiết	kế	theo	hướng	mở	nên	có	
thể	sử	dụng	một	cách	linh	hoạt,	
để	 các	 nội	 dung,	 hình	 ảnh	minh	
họa,	bài	học,	bài	tập	và	bài	giảng	
trong	 CT,	 SGK	 GDPT	 mới	 được	
lồng	 ghép	 giới	 một	 cách	 linh	
hoạt,	hài	hoà	và	hiệu	quả.	
10
1.	 Giới	là	khái	niệm	chỉ	đặc	điểm,	vị	trí,	vai	trò	của	nam	và	nữ	trong	
tất	cả	các	mối	quan	hệ	văn	hoá,	xã	hội.	Trong	khi	giới	tính	thường	
là	chỉ	các	đặc	điểm	sinh	học,	giới	có	thể	thay	đổi	theo	thời	gian	và	
không	gian,	phụ	thuộc	vào	bối	cảnh	xã	hội	cụ	thể.	Các	mối	quan	
hệ	giới	giữa	nam	và	nữ	có	thể	có	nhiều	khác	biệt	giữa	các	nền	văn	
hóa,	tầng	lớp,	chủng	tộc	và	khu	vực	địa	lí.
2.	 Giới	tính	là	khái	niệm	chỉ	những	khác	biệt	về	mặt	sinh	học	giữa	
nam	và	nữ,	cũng	như	các	đặc	tính	sinh	học	phân	biệt	nam	và	nữ.	
Một	người	có	thể	là	nam	hoặc	nữ	bất	kể	chủng	tộc,	tầng	lớp,	tuổi	
tác	hoặc	sắc	tộc.	
	 Tuy	nhiên,	ý	nghĩa	xã	hội	gắn	liền	với	sinh	học	của	một	người	có	
thể	khác	nhau	tuỳ	thuộc	vào	dân	tộc	của	họ.	Một	số	người	có	thể	
có	đặc	tính	sinh	học	của	cả	hai	phái,	nam	và	nữ,	bởi	sự	phức	tạp	
về	mặt	thể	chất	của	họ.
3.	 Bình	đẳng	giới	là	việc	nam,	nữ	có	vị	trí,	vai	trò	ngang	nhau,	được	
tạo	điều	kiện	và	cơ	hội	phát	huy	tiềm	năng	của	mình	cho	sự	phát	
triển	 của	 cộng	 đồng,	 của	 gia	 đình	 và	 thụ	 hưởng	 như	 nhau	 về	
thành	quả	của	sự	phát	triển	đó.
.	 Phân	biệt	đối	xử	về	giới	là	việc	hạn	chế,	loại	trừ,	không	công	nhận	
hoặc	không	coi	trọng	vai	trò,	vị	trí	của	nam	và	nữ,	gây	bất	bình	đẳng	
giữa	nam	và	nữ	trong	các	lĩnh	vực	của	đời	sống	xã	hội	và	gia	đình.
.	 Định	kiến	giới	 là	nhận	thức,	 thái	độ	và	đánh	giá	 thiên	 lệch	về	
đặc	điểm,	vị	 trí,	vai	 trò	và	năng	 lực	của	nam	hoặc	nữ.	Cụ	thể	 là	
nhận	thức	hoặc	hình	ảnh/đặc	điểm	bị	nhìn	nhận	sai	lệch	có	thể	
mang	tính	tích	cực	(tạo	nên	những	đặc	tính	có	giá	trị)	hoặc	tiêu	
cực	(tạo	nên	những	đặc	tính	kém	giá	trị	hoặc	gây	phản	cảm).
.	 Góc	nhìn	giới	hoặc	lăng	kính	giới	là	việc	nhìn	nhận	các	sự	việc/
vấn	đề	khác	nhau	có	tính	đến	những	khía	cạnh	về	giới.
7.	 Lồng	 ghép	 giới	 là	 phương	pháp	 tiếp	 cận	 và	biện	pháp	mang	
tính	chiến	lược	nhằm	đạt	được	bình	đẳng	giới	trong	xã	hội	bằng	
cách	đưa	yếu	tố	giới	vào	mọi	thiết	chế	cũng	như	các	lĩnh	vực	của	
đời	sống	chính	trị,	kinh	tế,	văn	hoá,	xã	hội	và	gia	đình.
Giải thích thuật ngữ
GI
ẢI
 T
HÍ
CH
 T
HU
ẬT
 N
GỮ
11
Giải thích thuật ngữ
.	 Lồng	ghép	giới	vào	CT,	SGK	được	hiểu	là	quá	trình	và	kết	quả	
thực	hiện	việc	tích	hợp	các	vấn	đề	giới	vào	chính	sách,	chiến	lược,	
CT,	SGK,	vào	quá	trình	dạy	và	học	ở	nhà	trường	cả	giáo	dục	chính	
quy	và	giáo	dục	thường	xuyên.
.	 Cân	bằng	giới	là	sự	thể	hiện	mang	tính	định	lượng	đại	diện	và	
tham	gia	của	hai	giới.	Cân	bằng	giới	 tuy	 là	một	bước	cần	 thiết	
nhưng	chưa	đủ	để	đạt	được	bình	đẳng	giới.
10.	 Công	bằng	giới	là	sự	đối	xử	hợp	lý	với	nam	và	nữ.	Để	đảm	bảo	
công	bằng,	cần	có	các	biện	pháp	khắc	phục	những	yếu	tố	bất	lợi	
về	lịch	sử	và	xã	hội	ngăn	không	cho	phụ	nữ	và	nam	giới	có	vị	thế	
bình	đẳng	với	nhau.
11.	 Khuôn	mẫu	giới	là	sự	khái	quát	hoá	về	đặc	điểm,	tính	cách	và	vai	
trò	của	một	nhóm	người	dựa	trên	giới	tính	của	họ.
	 Nói	cách	khác,	khuôn	mẫu	giới	là	một	tập	hợp	các	đặc	điểm	mà	
một	nhóm	người,	một	 cộng	đồng	cụ	 thể	nào	đó	gán	cho	nam	
giới	hay	nữ	giới,	 ví	 dụ	như	“con	gái	 thì	 yếu	mềm”	 còn	“con	 trai	
thì	mạnh	mẽ”	hoặc	“đàn	ông	làm	cảnh	sát”	còn	“phụ	nữ	nội	trợ”.	
Khuôn	mẫu	giới	làm	hình	thành	định	kiến	giới	và	dẫn	đến	cách	
nhìn	sai	lệch	về	một	giới	nào	đó.	Khuôn	mẫu	giới	tạo	áp	lực	về	sự	
lựa	chọn	môn	học,	nghề	nghiệp	hay	thể	hiện	sở	thích,	tiềm	năng	
của	bản	thân.
12.	 Phân	tích	giới	là	quá	trình	xem	xét	tại	sao	có	sự	bất	bình	đẳng	tồn	
tại	giữa	nam	giới	và	nữ	giới,	việc	hình	thành	và	duy	trì	sự	bất	bình	
đẳng	đó;	sự	bất	bình	đẳng	giới	gây	nên	những	hệ	quả	gì	cho	cả	nam	
giới	và	nữ	giới	trong	các	tình	huống	và	hoàn	cảnh	nhất	định.
13.	 Nhận	thức	giới	là	khả	năng	xác	định	và	nhận	thức	được	sự	khác	biệt	
và	tình	trạng	bất	bình	đẳng	còn	tồn	tại	giữa	nam	giới	và	nữ	giới.
1.	Đáp	ứng	giới	là	việc	xác	định	và	nhận	thức	được	sự	khác	biệt	và	
tình	trạng	bất	bình	đẳng	còn	tồn	tại	giữa	nam	giới	và	nữ	giới,	để	
xây	dựng	các	chính	sách,	sáng	kiến	nhằm	đáp	ứng	nhu	cầu,	khát	
vọng,	năng	lực	và	đóng	góp	khác	nhau	của	nam	giới	và	nữ	giới.
GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ
12
1.	Nhạy	cảm	giới	là	sự	nhận	thức	được	các	nhu	cầu,	vai	trò,	trách	
nhiệm	mang	 tính	 xã	 hội	 của	 phụ	 nữ	 và	 nam	 giới	 nảy	 sinh	 từ	
những	đặc	điểm	sinh	học	vốn	có	của	họ.	Nhạy	cảm	giới	là	hiểu	và	
ý	thức	được	những	sự	khác	biệt	đó	dẫn	đến	khác	biệt	giới	về	khả	
năng	tiếp	cận,	kiểm	soát	nguồn	lực	và	mức	độ	tham	gia,	hưởng	
lợi	trong	quá	trình	phát	triển	của	nam	và	nữ.
1.	Kỳ	thị	giới	là	bất	kỳ	sự	phân	biệt,	loại	trừ	hoặc	hạn	chế	dựa	trên	
vai	trò	và	chuẩn	mực	về	giới	do	văn	hoá	xã	hội	tạo	nên	mà	ngăn	
chặn	một	người	được	hưởng	đầy	đủ	các	quyền	của	mình.	Ví	dụ	
các	em	gái	bị	phân	biệt	đối	xử	khi	không	được	khuyến	khích	học	
những	môn	được	cho	là	nam	tính,	chẳng	hạn	như	cơ	khí.	Các	em	
trai	có	thể	bị	phân	biệt	đối	xử	theo	cách	tương	tự	khi	họ	bị	trêu	
chọc	khi	theo	đuổi	ngành	học	được	cho	là	“nữ	tính”,	chẳng	hạn	
như	điều	dưỡng.
17.	 Bạo	lực	học	đường	trên	cơ	sở	giới	là	mọi	hình	thức	bạo	lực	(thể	
hiện	rõ	ràng	hoặc	ngấm	ngầm),	bao	gồm	sự	lo	sợ	bạo	lực,	xảy	ra	
trong	môi	 trường	giáo	dục	 (bao	gồm	trong	và	ngoài	 trường,	ví	
dụ	như	trong	khuôn	viên	trường,	trên	đường	đến	trường	hoặc	từ	
trường	về	nhà,	và	trong	các	trường	hợp	khẩn	cấp	và	xung	đột)	
gây	ra	hoặc	có	khả	năng	gây	ra	nguy	hại	về	thể	chất,	 tinh	thần	
hoặc	tâm	lý	của	trẻ	(các	em	nam,	nữ,	liên	giới	tính	và	chuyển	giới	
với	 các	 xu	 hướng	 tính	 dục	 khác	 nhau).	Tình	 trạng	bạo	 lực	 học	
đường	trên	cơ	sở	giới	là	hệ	quả	của	các	khuôn	mẫu,	vai	trò	hoặc	
đặc	điểm	được	gắn	cho	hoặc	được	mong	đợi	 từ	các	em	vì	giới	
tính	hoặc	bản	dạng	giới	 của	 trẻ.	Tình	 trạng	này	còn	có	 thể	kết	
hợp	với	việc	cô	lập	hoặc	các	hình	thức	gây	tổn	thương	khác.
1.	 LGBTI	 là	 viết	 tắt	 của:	 Lesbian	 (đồng	 tính	 nữ),	 Gay	 (đồng	 tính	
nam),	Bisexual	(song	tính),	Transsexual/Transgender	(hoán	tính/
chuyển	giới)	và	Intersex	(liên	giới	tính).
Giải thích thuật ngữ
GI
ẢI
 T
HÍ
CH
 T
HU
ẬT
 N
GỮ
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
SỰ	CẦN	THIẾT	
LỒNG	GHÉP	GIỚI	
VÀO	CHƯƠNG	TRÌNH,	
SÁCH	GIÁO	KHOA	
GIÁO	DỤC	PHỔ	THÔNG
PHẦN I
1
SỰ
 C
ẦN
 T
HI
ẾT
 L
ỒN
G 
GH
ÉP
 G
IỚ
I V
ÀO
 C
HƯ
ƠN
G 
TR
ÌN
H,
 S
ÁC
H 
GI
ÁO
 K
HO
A 
GI
ÁO
 D
ỤC
 P
HỔ
 T
HÔ
NG
 Giáo dục là một quyền con người của trẻ em gái và trẻ 
em trai, phụ nữ và nam giới. Điều 26 của Tuyên bố toàn 
cầu về quyền con người, được Đại hội đồng Liên hợp 
quốc thông qua năm 1948 và Mục tiêu 5 của Các Mục 
tiêu về Giáo dục cho mọi người (EFA) ghi rõ: “Đến năm 
2005 loại bỏ được sự mất cân bằng giới trong giáo dục 
tiểu học và trung học” và “Đến năm 2015 đạt được bình 
đẳng giới trong giáo dục ở mọi cấp học”.
	 Theo	Báo	cáo	Giám	sát	Toàn	cầu	về	Giáo	dục	cho	mọi	người	năm	
2012	và	Viện	Thống	kê	của	UNESCO	-	UIS	2013,	từ	năm	1999	đến	
năm	 2010,	 số	 lượng	 các	 em	 gái	 bỏ	 học	 trong	 độ	 tuổi	 tiểu	 học	
giảm	đi	một	 nửa	 và	 trong	độ	 tuổi	 trung	 học	 đã	 giảm	hơn	một	
phần	ba.	Cũng	theo	báo	cáo	này,	trên	toàn	thế	giới,	có	101/161	
nước	đã	đạt	được	cân	bằng	giới	trong	giáo	dục	tiểu	học	(GDTH)	và	
66/160	nước	đã	đạt	được	cân	bằng	giới	trong	giáo	dục	trung	học	
cơ	sở	(THCS).	Thành	tích	học	tập	của	trẻ	em	gái	đã	được	cải	thiện,	
đôi	khi	còn	cao	hơn	trẻ	em	trai	về	khả	năng	ghi	nhớ,	hoàn	thành,	
chuyển	cấp	học.	
	 Tuy	nhiên,	cũng	theo	báo	cáo	trên,	thế	giới	vẫn	còn	có	sự	mất	cân	
bằng	giới	 nghiêm	 trọng.	Năm	2005,	 có	 94/149	quốc	gia	 không	
đạt	được	mục	tiêu	cân	bằng	giới.	Trẻ	em	không	được	đến	trường	
phần	 lớn	 là	trẻ	em	gái,	đặc	biệt	ở	khu	vực	Nam	và	Tây	Á.	Người	
lớn	không	biết	chữ	phần	lớn	là	phụ	nữ	(trong	số	781	triệu	người	
lớn	không	biết	chữ,	 có	 tới	2/3	 là	phụ	nữ)	 -	một	 tỷ	 lệ	không	đổi	
trong	suốt	20	năm.	Trẻ	em	trai	cũng	bị	ảnh	hưởng,	các	em	bị	đối	
xử	bất	 lợi	hơn	trong	giáo	dục	THCS,	đặc	biệt	tại	Đông	Á	và	Thái	
Bình	Dương.	Giáo	dục	là	một	nghề	được	nữ	tính	hóa,	nhưng	giáo	
viên	nữ	chiếm	phần	lớn	ở	các	cấp	giáo	dục	bậc	thấp,	trong	khi	vị	
1
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
trí	quản	lí	trong	các	hệ	thống	giáo	dục/trường	học	phần	lớn	lại	do	
nam	giới	đảm	trách.	
	 Phân	tích	từ	Tài	liệu	tập	huấn	của	UNESCO	về	nhạy	cảm	giới	(2002)	
cho	thấy,	hầu	hết	các	chương	trình	giáo	dục	cơ	bản	còn	xem	nhẹ	
vai	trò	phụ	nữ	và	cho	rằng	điều	đó	là	hiển	nhiên,	phụ	nữ	thường	
được	nhìn	nhận	như	là	những	người	thụ	hưởng	thụ	động,	các	kỹ	
năng	truyền	thống	của	nữ	giới	được	xem	là	ít	giá	trị,	không	đáp	
ứng	được	nhu	cầu	của	thị	trường.	Tại	gia	đình,	bố	mẹ	chưa	quan	
tâm	đúng	mực	tới	giáo	dục	dành	cho	trẻ	em	gái,	ở	nhiều	nơi,	trẻ	
em	gái	thường	phải	ở	nhà	để	làm	việc	nhà	hoặc	kiếm	tiền	cho	gia	
đình.	Ở	một	số	địa	phương,	còn	quan	điểm	cho	rằng	trẻ	em	gái	
được	đi	học	sẽ	có	ít	cơ	hội	lấy	chồng	và	không	đủ	kỹ	năng	làm	vợ	
hoặc	làm	mẹ	theo	nghĩa	truyền	thống.
	 Ở	môi	trường	học	tập,	vẫn	còn	những	giáo	viên	ưu	tiên	trẻ	em	trai	
trong	giờ	học.	Chương	trình	và	tài	liệu	học	tập	vẫn	tồn	tại	quan	
điểm	phụ	nữ	là	những	người	sống	phụ	thuộc	và	chỉ	phù	hợp	với	
công	việc	gia	đình,	có	vị	trí	yếu	thế	hơn	nam	giới.	Chương	trình	
giáo	dục	thường	tập	trung	chủ	yếu	vào	việc	giáo	dục	trẻ	em	gái	
thành	những	người	vợ	và	người	mẹ,	không	coi	trọng	vai	trò	của	
phụ	nữ	như	 là	những	người	 làm	kinh	 tế,	 hay	nắm	giữ	 các	 vị	 trí	
quản	lý	quan	trọng	trong	xã	hội.	Nội	dung	chương	trình	thiếu	yếu	
tố	giới	dẫn	đến	hạn	chế	năng	 lực	của	phụ	nữ	và	không	khuyến	
khích	nữ	giới	đặt	câu	hỏi	về	điều	kiện	sống	của	mình.	Sách	giáo	
khoa	thường	bao	gồm	các	khuôn	mẫu	về	nam	và	nữ,	vai	trò,	trách	
nhiệm	và	giá	trị	của	họ.	Học	sinh,	giáo	viên,	các	nhà	quản	lý	và	các	
bậc	phụ	huynh	chưa	ý	thức	được	là	có	một	số	hình	ảnh,	nội	dung	
học	tập	mang	tính	kỳ	thị	giới.
1.	 Bình	đẳng	giới	và	bạo	lực	trên	cơ	sở	giới	trong	GDPT	ở	
Việt	Nam
1.1. Bình đẳng giới trong GDPT ở Việt Nam
	 Báo	cáo	quốc	gia	về	giáo	dục	cho	mọi	người	năm	2015	của	Việt	
Nam,	cho	thấy:	Trong	các	chỉ	tiêu	vận	động	trẻ	em	nhập	học	thô,	
tuyển	sinh	mới	các	cấp	học	từ	mầm	non	đến	tiểu	học,	THCS	và	xóa	
mù	chữ,	chỉ	số	bình	đẳng	giới	(GPI)	qua	tất	cả	các	năm	đều	bằng	
1,0	hoặc	xấp	xỉ	1,0,	không	có	sự	khác	biệt	giữa	nam	và	nữ.	Điều	
1
SỰ
 C
ẦN
 T
HI
ẾT
 L
ỒN
G 
GH
ÉP
 G
IỚ
I V
ÀO
 C
HƯ
ƠN
G 
TR
ÌN
H,
 S
ÁC
H 
GI
ÁO
 K
HO
A 
GI
ÁO
 D
ỤC
 P
HỔ
 T
HÔ
NG
đó	chứng	tỏ,	tính	chung	cả	nước,	Việt	Nam	đã	đạt	được	bình	đẳng	
giới	trong	việc	thực	hiện	mục	tiêu	về	tiếp	cận	giáo	dục.
	 Tuy	nhiên,	xét	riêng	ở	góc	độ	đối	tượng	và	vùng	miền,	vẫn	còn	
chênh	lệch	về	giới	ở	các	vùng	có	đông	đồng	bào	dân	tộc	thiểu	số,	
vùng	có	điều	kiện	kinh	tế	-	xã	hội	khó	khăn	và	đặc	biệt	khó	khăn	
như	vùng	tây	Bắc,	Tây	Nguyên,	Đông	Nam	Bộ	và	Đồng	bằng	sông	
Cửu	Long.
	 Tỷ	lệ	giáo	viên	nữ	các	cấp	học	từ	mầm	non	đến	THCS	đạt	chuẩn	
đào	tạo	rất	cao,	GPI	bằng	1,0.	Đến	năm	học	2012	-	2013,	tỷ	lệ	giáo	
viên	là	nữ	trong	tổng	số	giáo	viên	theo	các	cấp	học	giảm	dần	từ	
mầm	non	đến	cấp	THPT,	đạt	99,68%	đối	với	GDMN,	52,57%	đối	với	
giáo	dục	 tiểu	học,	33,20%	đối	với	THCS	và	27,14%	đối	với	THPT	
(Báo	cáo	quốc	gia	về	Giáo	dục	cho	mọi	người,	Bộ	GDĐT,	2015).
	 Tỷ	 lệ	 cán	bộ	quản	 lý	giáo	dục	 là	nữ	 trong	 tổng	số	cán	bộ	quản	
lý	giáo	dục	ở	 cấp	 tỉnh	và	 cấp	huyện	đạt	 trung	bình	 các	năm	 là	
29,7%.	Như	vậy,	về	cơ	bản	Việt	Nam	đã	đạt	được	hầu	hết	các	chỉ	
tiêu	đề	ra	về	bình	đẳng	giới	(Bộ	GDĐT,	2014).
	 Tuy	nhiên,	vẫn	còn	tồn	tại	một	số	vấn	đề	về	giới.	Mặc	dù	tỷ	lệ	biết	
chữ	ở	dân	số	độ	tuổi	15	trở	lên	của	nữ	có	tăng	dần	từ	năm	2006	
tới	năm	2014,	nhưng	tỷ	lệ	này	qua	các	năm	đều	thấp	hơn	nam.	
	 Đáng	chú	ý	là,	càng	ở	cấp	học	lên	cao	(cao	đẳng,	đại	học,	thạc	sĩ,	
tiến	sĩ),	tỷ	lệ	nữ	sinh	càng	thấp.	Tương	tự,	có	sự	mất	cân	đối	rất	rõ	
ở	tỷ	lệ	giáo	viên	nữ	ở	các	bậc	học,	năm	học	2012	-	2013	chỉ	có	47%	
giáo	viên	nữ	ở	các	bậc	học	trung	học	chuyên	nghiệp,	đại	học	và	sau	
đại	học.	
	 Có	biểu	hiện	phân	biệt	đối	xử	giới	tính	trong	đầu	tư	cho	giáo	dục,	
điều	này	thể	hiện	ở	định	mức	chi	giáo	dục,	đào	tạo	cho	nữ	thấp	hơn	
cho	nam	giới,	cụ	thể	là	trong	kết	quả	Điều	tra	mức	sống	dân	cư	Việt	
Nam	năm	2012,	mức	chi	bình	quân	cho	giáo	dục,	đào	tạo/1	người:	
nam	 4,236	 triệu	 đồng,	 nữ	 3,830	 triệu	 đồng	 (bằng	 88,5%	 so	 với	
nam	giới)	(Tổng	cục	Thống	kê,	2012).
1.2. Bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở Việt Nam
	 Bạo	lực	trên	cơ	sở	giới	trong	các	cơ	sở	GDPT	ở	Việt	Nam	đang	là	
một	vấn	đề	gây	nhiều	bức	xúc	cho	học	sinh,	nhà	trường,	gia	đình	
17
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
và	xã	hội.	Từ	đầu	năm	học	2009	 -	2010	đến	 tháng	5/2012,	 toàn	
quốc	đã	xảy	ra	1.598	vụ	việc	học	sinh	đánh	nhau	trong	và	ngoài	
trường	học.	Bình	quân	cứ	5.260	học	sinh	thì	xảy	ra	một	vụ	đánh	
nhau;	cứ	9	trường	thì	có	1	vụ	học	sinh	đánh	nhau;	cứ	5.555	học	
sinh	thì	có	1	học	sinh	bị	kỷ	luật	cảnh	cáo	vì	đánh	nhau;	cứ	11.111	
học	sinh	thì	có	1	học	sinh	bị	buộc	thôi	học	có	thời	hạn	vì	đánh	
nhau	(Báo	cáo	của	Uỷ	ban	Văn	hoá,	Giáo	dục,	Thanh	niên,	Thiếu	
niên	và	Nhi	đồng	của	Quốc	hội,	tháng	5/2012).	
	 Một	nghiên	cứu	khác	về	bạo	lực	trên	cơ	sở	giới	tại	trường	học	của	
Viện	nghiên	cứu	Y	-	Xã	hội	phối	hợp	với	tổ	chức	PLAN	tại	Việt	Nam	
thực	hiện	từ	tháng	3	đến	tháng	9/2014	với	3.000	học	sinh	của	30	
trường	THCS,	THPT	trên	địa	bàn	Hà	Nội,	công	bố	cho	thấy,	khoảng	
80%	học	sinh	trong	đợt	khảo	sát	này	cho	biết	từ	trước	đến	nay	đã	
bị	bạo	lực	trên	cơ	sở	giới	trong	trường	học	ít	nhất	một	lần,	71%	
bị	bạo	 lực	 trong	vòng	6	 tháng	qua.	Trong	đó,	bạo	 lực	 tinh	 thần	
(mắng	chửi,	đe	dọa,	bắt	phạt,	đặt	điều,	sỉ	nhục...)	chiếm	tỷ	lệ	cao	
nhất	73%,	bạo	lực	thể	chất	(tát,	đá,	xô	đẩy,	kéo	tóc,	bạt	tai,	đánh	
đập...)	là	41%	và	bạo	lực	tình	dục	(tin	nhắn	với	nội	dung	tình	dục,	
sờ,	hôn,	hiếp	dâm,	yêu	cầu	chạm	vào	bộ	phận	sinh	dục,	lan	truyền	
tin	đồn	tình	dục,...)	chiếm	19%.
2.	 Thực	trạng	lồng	ghép	giới	trong	CT,	SGK	GDPT
2.1. Lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT trên thế giới
	 Trên	thế	giới,	các	nước	đã	có	rất	nhiều	nghiên	cứu	về	nội	dung,	
hình	minh	họa	trong	SGK	liên	quan	đến	giới	đã	được	thực	hiện,	
chú	ý	đến	nội	dung	kỳ	thị	giới,	có	nghĩa	là	sự	phân	biệt	đối	xử	dựa	
trên	cơ	sở	giới	 tính,	đặc	biệt	 là	đối	với	phái	nữ.	Phạm	vi	nghiên	
cứu	trong	 lĩnh	vực	này	đã	mở	rộng	đáng	kể	từ	năm	1981	trở	 lại	
đây,	một	phần	là	nhờ	có	chương	trình	nghiên	cứu	quốc	gia	trên	
diện	rộng	do	UNESCO	khởi	xướng	sau	Hội	nghị	Thế	giới	về	Thập	
kỷ	cho	Phụ	nữ	của	Liên	hợp	quốc:	Bình	đẳng,	Phát	triển	và	Hoà	
bình	(Copenhagen,	1980).	Chương	trình	này	đã	nghiên	cứu	SGK	
toàn	bộ	các	bộ	môn	các	cấp	tại	các	nước	châu	Phi,	châu	Mỹ,	châu