Giáo dục là một quyền con người của trẻ em gái và trẻ
em trai, phụ nữ và nam giới. Điều 26 của Tuyên bố toàn
cầu về quyền con người, được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua năm 1948 và Mục tiêu 5 của Các Mục
tiêu về Giáo dục cho mọi người (EFA) ghi rõ: “Đến năm
2005 loại bỏ được sự mất cân bằng giới trong giáo dục
tiểu học và trung học” và “Đến năm 2015 đạt được bình
đẳng giới trong giáo dục ở mọi cấp học”.
Theo Báo cáo Giám sát Toàn cầu về Giáo dục cho mọi người năm
2012 và Viện Thống kê của UNESCO - UIS 2013, từ năm 1999 đến
năm 2010, số lượng các em gái bỏ học trong độ tuổi tiểu học
giảm đi một nửa và trong độ tuổi trung học đã giảm hơn một
phần ba. Cũng theo báo cáo này, trên toàn thế giới, có 101/161
nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục tiểu học (GDTH) và
66/160 nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục trung học
cơ sở (THCS). Thành tích học tập của trẻ em gái đã được cải thiện,
đôi khi còn cao hơn trẻ em trai về khả năng ghi nhớ, hoàn thành,
chuyển cấp học.
Tuy nhiên, cũng theo báo cáo trên, thế giới vẫn còn có sự mất cân
bằng giới nghiêm trọng. Năm 2005, có 94/149 quốc gia không
đạt được mục tiêu cân bằng giới. Trẻ em không được đến trường
phần lớn là trẻ em gái, đặc biệt ở khu vực Nam và Tây Á. Người
lớn không biết chữ phần lớn là phụ nữ (trong số 781 triệu người
lớn không biết chữ, có tới 2/3 là phụ nữ) - một tỷ lệ không đổi
trong suốt 20 năm. Trẻ em trai cũng bị ảnh hưởng, các em bị đối
xử bất lợi hơn trong giáo dục THCS, đặc biệt tại Đông Á và Thái
Bình Dương. Giáo dục là một nghề được nữ tính hóa, nhưng giáo
viên nữ chiếm phần lớn ở các cấp giáo dục bậc thấp, trong khi vị1
trí quản lí trong các hệ thống giáo dục/trường học phần lớn lại do
nam giới đảm trách.
Phân tích từ Tài liệu tập huấn của UNESCO về nhạy cảm giới (2002)
cho thấy, hầu hết các chương trình giáo dục cơ bản còn xem nhẹ
vai trò phụ nữ và cho rằng điều đó là hiển nhiên, phụ nữ thường
được nhìn nhận như là những người thụ hưởng thụ động, các kỹ
năng truyền thống của nữ giới được xem là ít giá trị, không đáp
ứng được nhu cầu của thị trường. Tại gia đình, bố mẹ chưa quan
tâm đúng mực tới giáo dục dành cho trẻ em gái, ở nhiều nơi, trẻ
em gái thường phải ở nhà để làm việc nhà hoặc kiếm tiền cho gia
đình. Ở một số địa phương, còn quan điểm cho rằng trẻ em gái
được đi học sẽ có ít cơ hội lấy chồng và không đủ kỹ năng làm vợ
hoặc làm mẹ theo nghĩa truyền thống.
Ở môi trường học tập, vẫn còn những giáo viên ưu tiên trẻ em trai
trong giờ học. Chương trình và tài liệu học tập vẫn tồn tại quan
điểm phụ nữ là những người sống phụ thuộc và chỉ phù hợp với
công việc gia đình, có vị trí yếu thế hơn nam giới. Chương trình
giáo dục thường tập trung chủ yếu vào việc giáo dục trẻ em gái
thành những người vợ và người mẹ, không coi trọng vai trò của
phụ nữ như là những người làm kinh tế, hay nắm giữ các vị trí
quản lý quan trọng trong xã hội. Nội dung chương trình thiếu yếu
tố giới dẫn đến hạn chế năng lực của phụ nữ và không khuyến
khích nữ giới đặt câu hỏi về điều kiện sống của mình. Sách giáo
khoa thường bao gồm các khuôn mẫu về nam và nữ, vai trò, trách
nhiệm và giá trị của họ. Học sinh, giáo viên, các nhà quản lý và các
bậc phụ huynh chưa ý thức được là có một số hình ảnh, nội dung
học tập mang tính kỳ thị giới.
68 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hướng dẫn lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỒNG GHÉP GIỚI
VÀO CHƯƠNG TRÌNH,
SÁCH GIÁO KHOA
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nước CHXHCN Việt Nam
Ministry of Education and Training
S.R. Viet Nam
Tổ chức Giáo dục
Khoa học và Văn hoá
của Liên hợp quốc
United Nations
Education, Scientfic and
Cultural Organization
Sáng kiến Bình đẳng giới và Giáo dục cho trẻ em gái tại Việt Nam:
“Trao quyền cho trẻ em gái và phụ nữ vì một xã hội công bằng hơn”
Hà Nội, THáNG 4/2016
SỰ
C
ẦN
T
HI
ẾT
L
ỒN
G
GH
ÉP
G
IỚ
I V
ÀO
C
HƯ
ƠN
G
TR
ÌN
H,
S
ÁC
H
GI
ÁO
K
HO
A
GI
ÁO
D
ỤC
P
HỔ
T
HÔ
NG
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TÁT
CT Chương trình
GDĐT Giáo dục và Đào tạo
GDMN Giáo dục mầm non
GDPT Giáo dục phổ thông
GDTH Giáo dục tiểu học
GPI Chỉ số bình đẳng giới
SGK Sách giáo khoa
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá
của Liên hợp quốc
MỤC LỤC
Trang
GIỚI THIỆU 8
GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ 10
PHẦN I.
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CT, SGK GDPT 13
1. Bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở Việt Nam 15
2. Thực trạng lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT 17
3. Ý nghĩa của việc lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT mới 23
4. Vai trò của giáo dục và SGK trong thúc đẩy bình đẳng giới 24
PHẦN II.
CÁC CẤP ĐỘ, CÁC BƯỚC VÀ CÁC CÔNG CỤ LỒNG GHÉP GIỚI
VÀO CT, SGK GDPT 26
1. Thế nào là lồng ghép giới? 27
2. Các cấp độ lồng ghép giới 28
3. Các bước lồng ghép giới 28
4. Công cụ lồng ghép giới 29
PHẦN III.
MỘT SỐ LƯU Ý KHI THỰC HIỆN LỒNG GHÉP GIỚI
VÀO CT, SGK GDPT 40
1. Lưu ý chung khi thực hiện lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT 41
2. Lưu ý cụ thể khi thực hiện lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT 43
PHẦN IV.
CÁC PHỤ LỤC 49
Phụ lục 1. Góc nhìn giới trong một số SGK hiện hành của Việt Nam 50
Phụ lục 2. Đề cương báo cáo kết quả phân tích giới 63
Phụ lục 3. Tài liệu tham khảo/nguồn tham khảo 66
GIỚI THIỆU
Trong khuôn khổ Sáng kiến của Bộ GDĐT và Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
(UNESCO) về Bình đẳng giới và Giáo dục cho trẻ em
gái tại Việt Nam: Trao quyền cho trẻ em gái và phụ
nữ vì một xã hội công bằng hơn”, Bộ phận thường
trực Đổi mới CT, SGK GDPT thuộc Bộ GDĐT, với sự hỗ
trợ kỹ thuật của UNESCO và các chuyên gia tư vấn
đã xây dựng Tài liệu hướng dẫn Lồng ghép giới vào
CT, SGK GDPT (Tài liệu hướng dẫn).
Tài liệu hướng dẫn này được biên soạn trong bối
cảnh Việt Nam tiếp tục cam kết thực hiện các Mục
tiêu phát triển bền vững (SDGs) về Giáo dục chất
lượng (Mục tiêu số 4) và Bình đẳng giới (Mục tiêu
số 5) giai đoạn 2015 - 2030 của Liên hợp quốc, cũng
như đang tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số
88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội khóa
XIII về Đổi mới CT, SGK GDPT và Quyết định số 404/
QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt đề án Đổi mới CT, SGK GDPT.
Các mẫu biểu và bảng kiểm trong Tài liệu hướng
dẫn này được chọn lọc chủ yếu từ hai tài liệu “Thúc
đẩy bình đẳng giới trong giáo dục” (GENIA - UNESCO
2009) và “Thúc đẩy bình đẳng giới thông qua sách
giáo khoa - Hướng dẫn phương pháp luận”
(UNESCO 2009). Tài liệu hướng
dẫn cũng được hoàn thiện trên
cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp
của các đại biểu đến từ các trường đại học, cao đẳng
sư phạm, các Sở GDĐT, Học viện Quản lý giáo dục,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, các Vụ/Cục liên
quan thuộc Bộ GDĐT tham dự hai khóa tập huấn
được tổ chức tại Hà Nội (ngày 07-08/12/2015) và
thành phố Hồ Chí Minh (ngày 09-10/12/2015) về
Lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT và Hội thảo tham
vấn ngày 26/01/2016 tại Hà Nội, cũng như ý kiến
đóng góp của các nhà khoa học, nhà giáo, chuyên
gia giáo dục và giới.
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Tài liệu hướng dẫn được chia thành 3 phần chính,
bao gồm:
Phần I. Sự cần thiết lồng ghép giới vào CT, SGK
GDPT.
Phần II. Các cấp độ, các bước và các công cụ
lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT.
Phần III. Một số lưu ý khi thực hiện lồng ghép
giới vào CT, SGK GDPT.
Ngoài ra, còn có các phụ lục để cung cấp thêm các
thông tin, ví dụ minh hoạ cụ thể, mẫu báo cáo kết quả
phân tích giới và danh mục các tài liệu tham khảo.
Mục tiêu của Tài liệu hướng dẫn này nhằm cung cấp
thông tin và trang bị một số kỹ năng cần thiết cho
các cán bộ trong ngành Giáo dục nói chung và các
thành viên Ban xây dựng CT, Ban biên soạn SGK, Hội
đồng quốc gia thẩm định CT, SGK nói riêng cách thức
nhận biết định kiến và khuôn mẫu giới tồn tại trong
CT, SGK hiện hành, để đưa ra các quyết định phù hợp,
đảm bảo tốt nhất việc lồng ghép giới
trong quá trình xây dựng CT, biên
soạn SGK mới và thẩm định CT, SGK
mới, cũng như trong quá trình dạy
học ở các cấp học của GDPT, giúp
tăng cường bình đẳng giới trong
CT, SGK GDPT của Việt Nam.
Tài liệu hướng dẫn này được
thiết kế theo hướng mở nên có
thể sử dụng một cách linh hoạt,
để các nội dung, hình ảnh minh
họa, bài học, bài tập và bài giảng
trong CT, SGK GDPT mới được
lồng ghép giới một cách linh
hoạt, hài hoà và hiệu quả.
10
1. Giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong
tất cả các mối quan hệ văn hoá, xã hội. Trong khi giới tính thường
là chỉ các đặc điểm sinh học, giới có thể thay đổi theo thời gian và
không gian, phụ thuộc vào bối cảnh xã hội cụ thể. Các mối quan
hệ giới giữa nam và nữ có thể có nhiều khác biệt giữa các nền văn
hóa, tầng lớp, chủng tộc và khu vực địa lí.
2. Giới tính là khái niệm chỉ những khác biệt về mặt sinh học giữa
nam và nữ, cũng như các đặc tính sinh học phân biệt nam và nữ.
Một người có thể là nam hoặc nữ bất kể chủng tộc, tầng lớp, tuổi
tác hoặc sắc tộc.
Tuy nhiên, ý nghĩa xã hội gắn liền với sinh học của một người có
thể khác nhau tuỳ thuộc vào dân tộc của họ. Một số người có thể
có đặc tính sinh học của cả hai phái, nam và nữ, bởi sự phức tạp
về mặt thể chất của họ.
3. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được
tạo điều kiện và cơ hội phát huy tiềm năng của mình cho sự phát
triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó.
. Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận
hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng
giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
. Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch về
đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ. Cụ thể là
nhận thức hoặc hình ảnh/đặc điểm bị nhìn nhận sai lệch có thể
mang tính tích cực (tạo nên những đặc tính có giá trị) hoặc tiêu
cực (tạo nên những đặc tính kém giá trị hoặc gây phản cảm).
. Góc nhìn giới hoặc lăng kính giới là việc nhìn nhận các sự việc/
vấn đề khác nhau có tính đến những khía cạnh về giới.
7. Lồng ghép giới là phương pháp tiếp cận và biện pháp mang
tính chiến lược nhằm đạt được bình đẳng giới trong xã hội bằng
cách đưa yếu tố giới vào mọi thiết chế cũng như các lĩnh vực của
đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Giải thích thuật ngữ
GI
ẢI
T
HÍ
CH
T
HU
ẬT
N
GỮ
11
Giải thích thuật ngữ
. Lồng ghép giới vào CT, SGK được hiểu là quá trình và kết quả
thực hiện việc tích hợp các vấn đề giới vào chính sách, chiến lược,
CT, SGK, vào quá trình dạy và học ở nhà trường cả giáo dục chính
quy và giáo dục thường xuyên.
. Cân bằng giới là sự thể hiện mang tính định lượng đại diện và
tham gia của hai giới. Cân bằng giới tuy là một bước cần thiết
nhưng chưa đủ để đạt được bình đẳng giới.
10. Công bằng giới là sự đối xử hợp lý với nam và nữ. Để đảm bảo
công bằng, cần có các biện pháp khắc phục những yếu tố bất lợi
về lịch sử và xã hội ngăn không cho phụ nữ và nam giới có vị thế
bình đẳng với nhau.
11. Khuôn mẫu giới là sự khái quát hoá về đặc điểm, tính cách và vai
trò của một nhóm người dựa trên giới tính của họ.
Nói cách khác, khuôn mẫu giới là một tập hợp các đặc điểm mà
một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho nam
giới hay nữ giới, ví dụ như “con gái thì yếu mềm” còn “con trai
thì mạnh mẽ” hoặc “đàn ông làm cảnh sát” còn “phụ nữ nội trợ”.
Khuôn mẫu giới làm hình thành định kiến giới và dẫn đến cách
nhìn sai lệch về một giới nào đó. Khuôn mẫu giới tạo áp lực về sự
lựa chọn môn học, nghề nghiệp hay thể hiện sở thích, tiềm năng
của bản thân.
12. Phân tích giới là quá trình xem xét tại sao có sự bất bình đẳng tồn
tại giữa nam giới và nữ giới, việc hình thành và duy trì sự bất bình
đẳng đó; sự bất bình đẳng giới gây nên những hệ quả gì cho cả nam
giới và nữ giới trong các tình huống và hoàn cảnh nhất định.
13. Nhận thức giới là khả năng xác định và nhận thức được sự khác biệt
và tình trạng bất bình đẳng còn tồn tại giữa nam giới và nữ giới.
1. Đáp ứng giới là việc xác định và nhận thức được sự khác biệt và
tình trạng bất bình đẳng còn tồn tại giữa nam giới và nữ giới, để
xây dựng các chính sách, sáng kiến nhằm đáp ứng nhu cầu, khát
vọng, năng lực và đóng góp khác nhau của nam giới và nữ giới.
GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ
12
1. Nhạy cảm giới là sự nhận thức được các nhu cầu, vai trò, trách
nhiệm mang tính xã hội của phụ nữ và nam giới nảy sinh từ
những đặc điểm sinh học vốn có của họ. Nhạy cảm giới là hiểu và
ý thức được những sự khác biệt đó dẫn đến khác biệt giới về khả
năng tiếp cận, kiểm soát nguồn lực và mức độ tham gia, hưởng
lợi trong quá trình phát triển của nam và nữ.
1. Kỳ thị giới là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hoặc hạn chế dựa trên
vai trò và chuẩn mực về giới do văn hoá xã hội tạo nên mà ngăn
chặn một người được hưởng đầy đủ các quyền của mình. Ví dụ
các em gái bị phân biệt đối xử khi không được khuyến khích học
những môn được cho là nam tính, chẳng hạn như cơ khí. Các em
trai có thể bị phân biệt đối xử theo cách tương tự khi họ bị trêu
chọc khi theo đuổi ngành học được cho là “nữ tính”, chẳng hạn
như điều dưỡng.
17. Bạo lực học đường trên cơ sở giới là mọi hình thức bạo lực (thể
hiện rõ ràng hoặc ngấm ngầm), bao gồm sự lo sợ bạo lực, xảy ra
trong môi trường giáo dục (bao gồm trong và ngoài trường, ví
dụ như trong khuôn viên trường, trên đường đến trường hoặc từ
trường về nhà, và trong các trường hợp khẩn cấp và xung đột)
gây ra hoặc có khả năng gây ra nguy hại về thể chất, tinh thần
hoặc tâm lý của trẻ (các em nam, nữ, liên giới tính và chuyển giới
với các xu hướng tính dục khác nhau). Tình trạng bạo lực học
đường trên cơ sở giới là hệ quả của các khuôn mẫu, vai trò hoặc
đặc điểm được gắn cho hoặc được mong đợi từ các em vì giới
tính hoặc bản dạng giới của trẻ. Tình trạng này còn có thể kết
hợp với việc cô lập hoặc các hình thức gây tổn thương khác.
1. LGBTI là viết tắt của: Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đồng tính
nam), Bisexual (song tính), Transsexual/Transgender (hoán tính/
chuyển giới) và Intersex (liên giới tính).
Giải thích thuật ngữ
GI
ẢI
T
HÍ
CH
T
HU
ẬT
N
GỮ
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
SỰ CẦN THIẾT
LỒNG GHÉP GIỚI
VÀO CHƯƠNG TRÌNH,
SÁCH GIÁO KHOA
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
PHẦN I
1
SỰ
C
ẦN
T
HI
ẾT
L
ỒN
G
GH
ÉP
G
IỚ
I V
ÀO
C
HƯ
ƠN
G
TR
ÌN
H,
S
ÁC
H
GI
ÁO
K
HO
A
GI
ÁO
D
ỤC
P
HỔ
T
HÔ
NG
Giáo dục là một quyền con người của trẻ em gái và trẻ
em trai, phụ nữ và nam giới. Điều 26 của Tuyên bố toàn
cầu về quyền con người, được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua năm 1948 và Mục tiêu 5 của Các Mục
tiêu về Giáo dục cho mọi người (EFA) ghi rõ: “Đến năm
2005 loại bỏ được sự mất cân bằng giới trong giáo dục
tiểu học và trung học” và “Đến năm 2015 đạt được bình
đẳng giới trong giáo dục ở mọi cấp học”.
Theo Báo cáo Giám sát Toàn cầu về Giáo dục cho mọi người năm
2012 và Viện Thống kê của UNESCO - UIS 2013, từ năm 1999 đến
năm 2010, số lượng các em gái bỏ học trong độ tuổi tiểu học
giảm đi một nửa và trong độ tuổi trung học đã giảm hơn một
phần ba. Cũng theo báo cáo này, trên toàn thế giới, có 101/161
nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục tiểu học (GDTH) và
66/160 nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục trung học
cơ sở (THCS). Thành tích học tập của trẻ em gái đã được cải thiện,
đôi khi còn cao hơn trẻ em trai về khả năng ghi nhớ, hoàn thành,
chuyển cấp học.
Tuy nhiên, cũng theo báo cáo trên, thế giới vẫn còn có sự mất cân
bằng giới nghiêm trọng. Năm 2005, có 94/149 quốc gia không
đạt được mục tiêu cân bằng giới. Trẻ em không được đến trường
phần lớn là trẻ em gái, đặc biệt ở khu vực Nam và Tây Á. Người
lớn không biết chữ phần lớn là phụ nữ (trong số 781 triệu người
lớn không biết chữ, có tới 2/3 là phụ nữ) - một tỷ lệ không đổi
trong suốt 20 năm. Trẻ em trai cũng bị ảnh hưởng, các em bị đối
xử bất lợi hơn trong giáo dục THCS, đặc biệt tại Đông Á và Thái
Bình Dương. Giáo dục là một nghề được nữ tính hóa, nhưng giáo
viên nữ chiếm phần lớn ở các cấp giáo dục bậc thấp, trong khi vị
1
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
trí quản lí trong các hệ thống giáo dục/trường học phần lớn lại do
nam giới đảm trách.
Phân tích từ Tài liệu tập huấn của UNESCO về nhạy cảm giới (2002)
cho thấy, hầu hết các chương trình giáo dục cơ bản còn xem nhẹ
vai trò phụ nữ và cho rằng điều đó là hiển nhiên, phụ nữ thường
được nhìn nhận như là những người thụ hưởng thụ động, các kỹ
năng truyền thống của nữ giới được xem là ít giá trị, không đáp
ứng được nhu cầu của thị trường. Tại gia đình, bố mẹ chưa quan
tâm đúng mực tới giáo dục dành cho trẻ em gái, ở nhiều nơi, trẻ
em gái thường phải ở nhà để làm việc nhà hoặc kiếm tiền cho gia
đình. Ở một số địa phương, còn quan điểm cho rằng trẻ em gái
được đi học sẽ có ít cơ hội lấy chồng và không đủ kỹ năng làm vợ
hoặc làm mẹ theo nghĩa truyền thống.
Ở môi trường học tập, vẫn còn những giáo viên ưu tiên trẻ em trai
trong giờ học. Chương trình và tài liệu học tập vẫn tồn tại quan
điểm phụ nữ là những người sống phụ thuộc và chỉ phù hợp với
công việc gia đình, có vị trí yếu thế hơn nam giới. Chương trình
giáo dục thường tập trung chủ yếu vào việc giáo dục trẻ em gái
thành những người vợ và người mẹ, không coi trọng vai trò của
phụ nữ như là những người làm kinh tế, hay nắm giữ các vị trí
quản lý quan trọng trong xã hội. Nội dung chương trình thiếu yếu
tố giới dẫn đến hạn chế năng lực của phụ nữ và không khuyến
khích nữ giới đặt câu hỏi về điều kiện sống của mình. Sách giáo
khoa thường bao gồm các khuôn mẫu về nam và nữ, vai trò, trách
nhiệm và giá trị của họ. Học sinh, giáo viên, các nhà quản lý và các
bậc phụ huynh chưa ý thức được là có một số hình ảnh, nội dung
học tập mang tính kỳ thị giới.
1. Bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở
Việt Nam
1.1. Bình đẳng giới trong GDPT ở Việt Nam
Báo cáo quốc gia về giáo dục cho mọi người năm 2015 của Việt
Nam, cho thấy: Trong các chỉ tiêu vận động trẻ em nhập học thô,
tuyển sinh mới các cấp học từ mầm non đến tiểu học, THCS và xóa
mù chữ, chỉ số bình đẳng giới (GPI) qua tất cả các năm đều bằng
1,0 hoặc xấp xỉ 1,0, không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Điều
1
SỰ
C
ẦN
T
HI
ẾT
L
ỒN
G
GH
ÉP
G
IỚ
I V
ÀO
C
HƯ
ƠN
G
TR
ÌN
H,
S
ÁC
H
GI
ÁO
K
HO
A
GI
ÁO
D
ỤC
P
HỔ
T
HÔ
NG
đó chứng tỏ, tính chung cả nước, Việt Nam đã đạt được bình đẳng
giới trong việc thực hiện mục tiêu về tiếp cận giáo dục.
Tuy nhiên, xét riêng ở góc độ đối tượng và vùng miền, vẫn còn
chênh lệch về giới ở các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn
như vùng tây Bắc, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông
Cửu Long.
Tỷ lệ giáo viên nữ các cấp học từ mầm non đến THCS đạt chuẩn
đào tạo rất cao, GPI bằng 1,0. Đến năm học 2012 - 2013, tỷ lệ giáo
viên là nữ trong tổng số giáo viên theo các cấp học giảm dần từ
mầm non đến cấp THPT, đạt 99,68% đối với GDMN, 52,57% đối với
giáo dục tiểu học, 33,20% đối với THCS và 27,14% đối với THPT
(Báo cáo quốc gia về Giáo dục cho mọi người, Bộ GDĐT, 2015).
Tỷ lệ cán bộ quản lý giáo dục là nữ trong tổng số cán bộ quản
lý giáo dục ở cấp tỉnh và cấp huyện đạt trung bình các năm là
29,7%. Như vậy, về cơ bản Việt Nam đã đạt được hầu hết các chỉ
tiêu đề ra về bình đẳng giới (Bộ GDĐT, 2014).
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề về giới. Mặc dù tỷ lệ biết
chữ ở dân số độ tuổi 15 trở lên của nữ có tăng dần từ năm 2006
tới năm 2014, nhưng tỷ lệ này qua các năm đều thấp hơn nam.
Đáng chú ý là, càng ở cấp học lên cao (cao đẳng, đại học, thạc sĩ,
tiến sĩ), tỷ lệ nữ sinh càng thấp. Tương tự, có sự mất cân đối rất rõ
ở tỷ lệ giáo viên nữ ở các bậc học, năm học 2012 - 2013 chỉ có 47%
giáo viên nữ ở các bậc học trung học chuyên nghiệp, đại học và sau
đại học.
Có biểu hiện phân biệt đối xử giới tính trong đầu tư cho giáo dục,
điều này thể hiện ở định mức chi giáo dục, đào tạo cho nữ thấp hơn
cho nam giới, cụ thể là trong kết quả Điều tra mức sống dân cư Việt
Nam năm 2012, mức chi bình quân cho giáo dục, đào tạo/1 người:
nam 4,236 triệu đồng, nữ 3,830 triệu đồng (bằng 88,5% so với
nam giới) (Tổng cục Thống kê, 2012).
1.2. Bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở Việt Nam
Bạo lực trên cơ sở giới trong các cơ sở GDPT ở Việt Nam đang là
một vấn đề gây nhiều bức xúc cho học sinh, nhà trường, gia đình
17
SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
và xã hội. Từ đầu năm học 2009 - 2010 đến tháng 5/2012, toàn
quốc đã xảy ra 1.598 vụ việc học sinh đánh nhau trong và ngoài
trường học. Bình quân cứ 5.260 học sinh thì xảy ra một vụ đánh
nhau; cứ 9 trường thì có 1 vụ học sinh đánh nhau; cứ 5.555 học
sinh thì có 1 học sinh bị kỷ luật cảnh cáo vì đánh nhau; cứ 11.111
học sinh thì có 1 học sinh bị buộc thôi học có thời hạn vì đánh
nhau (Báo cáo của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu
niên và Nhi đồng của Quốc hội, tháng 5/2012).
Một nghiên cứu khác về bạo lực trên cơ sở giới tại trường học của
Viện nghiên cứu Y - Xã hội phối hợp với tổ chức PLAN tại Việt Nam
thực hiện từ tháng 3 đến tháng 9/2014 với 3.000 học sinh của 30
trường THCS, THPT trên địa bàn Hà Nội, công bố cho thấy, khoảng
80% học sinh trong đợt khảo sát này cho biết từ trước đến nay đã
bị bạo lực trên cơ sở giới trong trường học ít nhất một lần, 71%
bị bạo lực trong vòng 6 tháng qua. Trong đó, bạo lực tinh thần
(mắng chửi, đe dọa, bắt phạt, đặt điều, sỉ nhục...) chiếm tỷ lệ cao
nhất 73%, bạo lực thể chất (tát, đá, xô đẩy, kéo tóc, bạt tai, đánh
đập...) là 41% và bạo lực tình dục (tin nhắn với nội dung tình dục,
sờ, hôn, hiếp dâm, yêu cầu chạm vào bộ phận sinh dục, lan truyền
tin đồn tình dục,...) chiếm 19%.
2. Thực trạng lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT
2.1. Lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT trên thế giới
Trên thế giới, các nước đã có rất nhiều nghiên cứu về nội dung,
hình minh họa trong SGK liên quan đến giới đã được thực hiện,
chú ý đến nội dung kỳ thị giới, có nghĩa là sự phân biệt đối xử dựa
trên cơ sở giới tính, đặc biệt là đối với phái nữ. Phạm vi nghiên
cứu trong lĩnh vực này đã mở rộng đáng kể từ năm 1981 trở lại
đây, một phần là nhờ có chương trình nghiên cứu quốc gia trên
diện rộng do UNESCO khởi xướng sau Hội nghị Thế giới về Thập
kỷ cho Phụ nữ của Liên hợp quốc: Bình đẳng, Phát triển và Hoà
bình (Copenhagen, 1980). Chương trình này đã nghiên cứu SGK
toàn bộ các bộ môn các cấp tại các nước châu Phi, châu Mỹ, châu