Khả năng tự làm sạch của nguồn nước

Nước thải được pha loãng với nước nguồn tiếp nhận đến một khoảng nào đó thì được xáo trộn hoàn toàn với nước nguồn. ở những điều kiện bình thường, trong nguồn nước sẽ diễn ra một chu trình kín sự cân bằng giữa sự sốngcủa các loài động thực vật và vi sinh vật. Sự sống của chúng có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Khi nguồn nước bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt và công nghiệp, sẽ tạo thành một lượng dư chất gây phá vỡ chu trình. Sự ô nhiễm quá mức sẽ làm cho nhiều chấthữu cơ trở nên không ổn định, làm cho cơ chế cân bằng của sinh vật, sự cung cấp ôxy. diễn ra không bình thường. Tuy nhiên, tiếp theo một khoảng cách nào đó về hạ nguồn, tuỳ thuộc lượng các chất gây ô nhiễm, lưu lượng nước nguồn, các điều kiện thuỷ động của dòng chảy., những chu trình bình thường sẽ được phục hồi trở lại. Sự phục hồi này được gọi là sự tự làm sạch.

pdf8 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng tự làm sạch của nguồn nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khả năng tự làm sạch của nguồn nước Nước thải được pha loãng với nước nguồn tiếp nhận đến một khoảng nào đó thì được xáo trộn hoàn toàn với nước nguồn. ở những điều kiện bình thường, trong nguồn nước sẽ diễn ra một chu trình kín sự cân bằng giữa sự sống của các loài động thực vật và vi sinh vật. Sự sống của chúng có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Khi nguồn nước bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt và công nghiệp, sẽ tạo thành một lượng dư chất gây phá vỡ chu trình. Sự ô nhiễm quá mức sẽ làm cho nhiều chất hữu cơ trở nên không ổn định, làm cho cơ chế cân bằng của sinh vật, sự cung cấp ôxy... diễn ra không bình thường. Tuy nhiên, tiếp theo một khoảng cách nào đó về hạ nguồn, tuỳ thuộc lượng các chất gây ô nhiễm, lưu lượng nước nguồn, các điều kiện thuỷ động của dòng chảy..., những chu trình bình thường sẽ được phục hồi trở lại. Sự phục hồi này được gọi là sự tự làm sạch. Khi sự ô nhiễm diễn ra bởi quá nhiều chất hữu cơ thì sẽ thấy rõ và phân biệt được các vùng ô nhiễm và vùng phục hồi. Mỗi vùng được đặc trưng bởi các điều kiện hoá lý, sinh mà có thể quan sát kiểm tra đánh giá được. Các vùng đó là: Vùng phân huỷ: Được hình thành ngay sau nguồn nước thải và được biểu hiện bởi độ đục và màu đen của nước. ở đây sẽ diễn ra sự phân huỷ kỵ khí; sự tiêu thụ ôxy tăng nhanh, xuất hiện CO2 và NH4. Các dạng sinh vật bậc cao, đặc biệt là cá sẽ bị chết hoặc là chúng phải rời đi nơi khác. Nấm có thể hình thành và xuất hiện thành khối màu nâu trắng hoặc màu xám như những chiếc đũa nhỏ và chìm xuống; vi khuẩn xuất hiện ít hơn nấm. Trong cặn lắng có một loài ấu trùng roi; loài này nuốt cặn và thải cặn ra ở dạng ổn định và lại được các sinh vật khác sử dụng. Vùng phân huỷ mạnh: Vùng này thấy rất rõ khi nước bị ô nhiễm nặng và đặc trưng bởi sự vắng mặt ôxy hoà tan, diễn ra sự phân huỷ kỵ khí. Do kết quả của sự phân huỷ cặn, các bọt khí và bùn cặn có thể xuất hiện trên mặt nước tạo thành váng màu đen. Nước sẽ có màu xám đen và có mùi hôi thối của các hợp chất chứa lưu huỳnh. Các vi sinh vật chủ yếu là vi khuẩn kỵ khí, nấm hầu như đã biến mất; các loài động vật bậc cao cũng rất ít, chỉ có một ít loài ấu trùng, côn trùng... Vùng phục hồi: ở vùng này nhiều chất hữu cơ đã lắng đọng xuống ở dạng cặn. Cặn bị phân huỷ kỵ khí dưới đáy hoặc trong dòng nước chuyển động. Vì nhu cầu tiêu thụ ôxy của nước nhỏ hơn tốc độ làm thoáng bề mặt nên tình trạng được cải thiện, nước được trong hơn. Lượng CO2, NH4 giảm và ôxy hoà tan, NO2-, NO3- tăng lên. Vi khuẩn có xu hướng giảm về số lượng vì việc cung cấp thức ăn bị giảm, chúng chủ yếu là loài hiếu khí. Nấm xanh, tảo xuất hiện đã sử dụng các hợp chất chứa nitrơ và CO2 rồi giải phóng ôxy giúp cho việc làm thoáng và hoà tan ôxy mạnh mẽ hơn. Tiếp theo, nhu cầu tiêu thụ ôxy giảm; các loài khuê tảo cũng ít hơn; xuất hiện các loài nguyên sinh động vật, nhuyễn thể, các thực vật nước; quần thể cá cũng ổn định dần và tìm thức ăn trong vùng này. Vùng nước trong: ở đây dòng chảy đã trở lại trạng thái tự nhiên và có các loài phù du thông thường của nước sạch. Do ảnh hưởng của độ phì dưỡng do ô nhiễm trước đây cho nên các loài phù du sẽ xuất hiện với số lượng lớn. Nước trở lại trạng thái cân bằng ôxy - lượng ôxy hoà tan lớn hơn lượng ôxy tiêu thụ - trạng thái ban đầu của nước đã được phục hồi hoàn toàn. Trong quá trình phục hồi, coliforms và các sinh vật gây bệnh cũng đã giảm về số lượng vì môi trường không thuận lợi cho chúng và xuất hiện những sinh vật chủ đạo. Tuy nhiên một số loài gây bệnh còn tồn tại trong vùng nước trong, do đó có thể nước vẫn còn bị ô nhiễm bởi vi khuẩn gây bệnh và không thể dùng cho ăn uống, sinh hoạt nếu không được sử lý. Khả năng tự làm sạch của nước sẽ diễn ra không đạt kết quả khi trong nước thải có chứa các chất độc hại đối với sự sống của các sinh vật; quá trình tự làm sạch của nước chỉ diễn ra khi các chất độc hại trong nước bị tiêu tan hoặc pha loãng hay lý do nào khác. Vì vậy cần phải giám sát chặt chẽ hàm lượng các chất độc hại trong nước thải. Thực hiện sự chỉ đạo của Công đoàn viên chức tỉnh và Chương trình hoạt động của Công đoàn cơ sở Sở Tài nguyên & Môi trường năm 2009, ngày 22/01/2009, được sự nhất trí của BCH Đảng bộ Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở phối hợp với Giám đốc Sở tổ chức hội nghị cán bộ công chức năm 2009. Trình tự và nội dung Hội nghị được thực hiện theo đúng Thông tư Liên tịch số 09/1998/TTLT-TCCP-TLĐLĐ ngày 04/12/1998 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội Vụ) và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Dự Hội nghị có 107 đoàn viên trên tổng số 120 doàn viên được triệu tập, với nhiều nội dung được triển khai: Thông qua Báo cáo tổng kết việc thực hiện chức năng nhiệm vụ và quy chế của cơ quan; Báo cáo tổng kết hoạt động công đoàn và phong trào thi đua trong CBCC,VC,LĐ; công bố công khai kế hoạch, dự toán ngân sách năm 2009; Báo cáo tổng kết hoạt động của Ban thanh tra nhân dân năm 2008 và chương trình công tác năm 2009.... Đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ về chuyên môn nghiệp vụ: Ngoài kế hoạch được giao trong năm, quá trình thực hiện có nhiều công việc phát sinh, có công việc phải tập trung chỉ đạo có tính cấp bách, rộng khắp, có những công việc của ngành phải giải quyết đáp ứng yêu cầu bức xúc của xã hội, bên cạnh đó Sở phải tham mưu cho Tỉnh những chủ trương, kế hoạch, dự án trong công tác quản lý tài nguyên - môi trường mang tính chiến lược, lâu dài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bằng sự nỗ lực của toàn ngành đã tập trung sức lực, trí tuệ nên kết quả đã giải quyết cơ bản hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ trên 6 lĩnh vực quản lý của ngành. Trong suốt quá trình thực hiện Sở và ngành Tài nguyên và Môi trường Phú Thọ đã tạo được sự quan tâm của Bộ TN & MT, của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh cũng như các ngành, các cấp; các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của ngành được tăng cường, bổ sung kịp thời. Nhìn chung cán bộ, công chức đã nắm bắt thông tin, tranh thủ tối đa nguồn lực của Trung ương và địa phương; các phòng chuyên môn đã tham mưu giúp Lãnh đạo Sở chỉ đạo tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả ở hầu hết các lĩnh vực, hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. Hoạt động của các tổ chức đoàn thể nói chung, Công đoàn nói riêng đã phối hợp với chính quyền tổ chức tốt các chương trình công tác trong năm: Luôn chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ cán bộ công chức, viên chức, người lao động đảm bảo đáp ứng yêu cầu để thực thi các nhiệm vụ của ngành; tổ chức tốt các phong trào thi đua lao động với tinh thần 8 giờ làm việc hiệu quả; luôn cải tiến lề lối làm việc. Tích cực hưởng ứng các cuộc vận động như: xây dựng người công chức “Trung thành - sáng tạo - tận tuỵ - gương mẫu”; phòng trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đặc biệt là cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Công đoàn đã thực hiện tốt vai trò trong việc chăm lo đời sống, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người lao động; tham gia đầy đủ và đề xuất với Thủ trưởng cơ quan trong việc bổ nhiệm cán bộ cho các đơn vị thuộc Sở; xét duyệt nâng lương đúng kỳ và nâng lương sớm cho các đoàn viên đủ điều kiện. Tích cực vận động đoàn viên tham gia đầy đủ các cuộc vận động ủng hộ quỹ từ thiện, nhân đạo. Sau khi thông qua các báo cáo đánh giá của Cơ quan và Tổ chức Công đoàn, đại diện cho các đơn vị và các đoàn thể tích cực tham gia thảo luận với tổng số 09 ý kiến tham gia. Các ý kiến tham gia với ý thức xây dựng và trách nhiệm, không khí thảo luận sôi nổi dân chủ, thẳng thắn, tập trung theo các nội dung: Bổ sung về nội dung báo cáo về kết quả và những tồn tại trong thực hiện các lĩnh vực chuyên môn; sự phối hợp kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữa đơn vị sự nghiệp với các phòng chuyên môn; Lãnh đạo cơ quan và tổ chức Công đoàn cần chăm lo hơn nữa đến đời sống tinh thần và vật chất cho cán bộ công chức, viên chức, lao động của cơ quan; sửa đổi nội quy, quy chế của cơ quan để phù hợp với nhiệm vụ đặt ra hiện nay; công tác nội vụ cơ quan cần chú trọng và phải được đảm bảo tiếp tục thực hiện tốt quy chế văn hoá nơi công sở với tinh thần giữ vững là cơ quan văn hoá cấp tỉnh; tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện quy chế dân chủ trong năm 2009. Sau khi tổng hợp ý kiến, đồng chí Giám đốc Sở đã tiếp thu, giải đáp những ý kiến tham gia của cán bộ công chức, đồng thời đưa ra các giải