Khái niệm Tham vấn - Một dịch vụ xã hội ở Việt Nam

Tham vấn là một thuật ngữ tương đối mới mẻ ở nước ta, song lại đang được quan tâm khá nhiều trong thời gian gần đây. Tại một số hội thảo trong nước bàn về vấn đề an sinh xã hội, công tác xã hội v.v. tham vấn được nhắc tới như một dịch vụ cần thiết, mặc dù đã có không ít các tranh luận về khái niệm và sự phân định với các dịch vụ khác hiện đang có ở Việt Nam. Trong một số đề tài khoa học, tạp chí chuyên ngành, tài liệu giảng dạy, người ta cũng thấy nó được đề cập ngày một nhiều hơn. Trong thực tiễn triển khai các chính sách, chương trình phát triển xã hội, tham vấn tỏ ra là một trong những kỹ năng quan trọng, giúp các cán bộ xã hội thực thi nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, vào những năm gần đây, tại các khoá tập huấn của các ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Dân số, Trẻ em và Gia đình, Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ, các khoá tập huấn của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như của UNDP, UNICEF, Trăng lưỡi liềm đỏ, các tổ chức NGO. nội dung tham vấn đã được đưa vào như một phần quan trọng của chương trình. Gần đây nhất, tháng 11 năm 2004, trong chương trình đào tạo cử nhân Công tác xã hội do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, tham vấn được coi như một môn học bắt buộc nằm trong chương trình cứng đối với tất cả những trường đại học hay cao đẳng đào tạo cán bộ XH ở nước ta.

pdf5 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1774 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái niệm Tham vấn - Một dịch vụ xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Khái niệm Tham vấn - một dịch vụ xã hội ở Việt Nam (Tamly) - Tháng 11 năm 2004, trong chương trình đào tạo cử nhân Công tác xã hội do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, tham vấn được coi như một môn học bắt buộc nằm trong chương trình cứng đối với tất cả những trường đại học hay cao đẳng đào tạo cán bộ xã hội ở nước ta.Vậy tham vấn là gì? Và tại sao nó lại được quan tâm ngày một nhiều hơn ở nước ta hiện nay? Tham vấn là một thuật ngữ tương đối mới mẻ ở nước ta, song lại đang được quan tâm khá nhiều trong thời gian gần đây. Tại một số hội thảo trong nước bàn về vấn đề an sinh xã hội, công tác xã hội v.v... tham vấn được nhắc tới như một dịch vụ cần thiết, mặc dù đã có không ít các tranh luận về khái niệm và sự phân định với các dịch vụ khác hiện đang có ở Việt Nam. Trong một số đề tài khoa học, tạp chí chuyên ngành, tài liệu giảng dạy, người ta cũng thấy nó được đề cập ngày một nhiều hơn. Trong thực tiễn triển khai các chính sách, chương trình phát triển xã hội, tham vấn tỏ ra là một trong những kỹ năng quan trọng, giúp các cán bộ xã hội thực thi nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, vào những năm gần đây, tại các khoá tập huấn của các ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Dân số, Trẻ em và Gia đình, Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ, các khoá tập huấn của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như của UNDP, UNICEF, Trăng lưỡi liềm đỏ, các tổ chức NGO... nội dung tham vấn đã được đưa vào như một phần quan trọng của chương trình. Gần đây nhất, tháng 11 năm 2004, trong chương trình đào tạo cử nhân Công tác xã hội do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, tham vấn được coi như một môn học bắt buộc nằm trong chương trình cứng đối với tất cả những trường đại học hay cao đẳng đào tạo cán bộ XH ở nước ta. Vậy tham vấn là gì? Và tại sao nó lại được quan tâm ngày một nhiều hơn ở nước ta hiện nay? Ở nhiều nước trên thế giới, tham vấn (tiếng Anh là Counseling) là một thuật ngữ quen thuộc với người dân, đặc biệt là đối với các cán bộ làm việc trực tiếp (còn gọi là cán bộ thực hành - Practitioner), các nhà đào tạo hay nghiên cứu về lĩnh vực an sinh xã hội (Social Welfare), công tác xã hội (Social Work) hoặc sức khoẻ tâm thần (Mental Health) v.v... Tuy nhiên, không ít các nhà nghiên cứu về vấn đề này đều nhận định rằng hiện chưa có một định nghĩa thống nhất về tham vấn, thậm chí nó còn được sử dụng ở nghĩa rất rộng và tạo ra những cách hiểu khác nhau ở nhiều người. Ở Việt Nam, Counseling được dịch ra với nhiều cái tên khác nhau như tham vấn, tư vấn, tư vấn tâm lý, trị liệu v.v... Ban đầu, thuật ngữ tư vấn được sử dụng rất phổ biến. Sau này, để phân biệt rõ với các hình thức tư vấn pháp luật, tư vấn kinh tế v.v... trong một số tài liệu nó được gọi với cái tên cụ thể đó là tư vấn tâm lý. Tuy nhiên, người ta gặp một số khó khăn khi dịch thuật các khái niệm 2 Counseling và Consultation sang tiếng Việt bởi chúng đều được dịch thành tư vấn và ngược lại. Theo các chuyên gia nước ngoài, đây là hai khái niệm khác biệt bởi sự khác nhau về phương pháp tiếp cận: người làm Consultation là cho đối tượng lời khuyên, chỉ bảo cho họ nên làm gì, còn khi thực hiện Coun- seling người cán bộ bằng mối quan hệ tương tác tích cực giúp đối tượng tự nhận thức và tự lựa chọn giải pháp phù hợp nhất đối với họ. Tại các hội thảo trong nước về tham vấn, phần đông cán bộ tư vấn có kinh nghiệm cũng ghi nhận rằng cách thức trợ giúp hiện nay thiên về khía cạnh tư vấn (Consultation) hơn là Counseling. Để phân định rõ ràng các khái niệm này, đồng thời khẳng định tính đặc thù của nó, thuật ngữ tham vấn dường như đang dần được Tham vấn là một thuật ngữ tương đối mới mẻ ở nước ta, song lại đang được quan tâm khá nhiều trong thời gian gần đây. Tại một số hội thảo trong nước bàn về vấn đề an sinh xã hội, công tác xã hội v.v... tham vấn được nhắc tới như một dịch vụ cần thiết, mặc dù đã có không ít các tranh luận về khái niệm và sự phân định với các dịch vụ khác hiện đang có ở Việt Nam. Trong một số đề tài khoa học, tạp chí chuyên ngành, tài liệu giảng dạy, người ta cũng thấy nó được đề cập ngày một nhiều hơn. Trong thực tiễn triển khai các chính sách, chương trình phát triển xã hội, tham vấn tỏ ra là một trong những kỹ năng quan trọng, giúp các cán bộ xã hội thực thi nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, vào những năm gần đây, tại các khoá tập huấn của các ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Dân số, Trẻ em và Gia đình, Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ, các khoá tập huấn của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như của UNDP, UNICEF, Trăng lưỡi liềm đỏ, các tổ chức NGO... nội dung tham vấn đã được đưa vào như một phần quan trọng của chương trình. Gần đây nhất, tháng 11 năm 2004, trong chương trình đào tạo cử nhân Công tác xã hội do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, tham sử dụng thay thế nhiều hơn trong các tài liệu cũng như trong hoạt động thực tiễn. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ tham vấn. Sau đây xin giới thiệu một số khái niệm về tham vấn. Rogers Jenny trong cuốn Caring for people USA, 1990, cho rằng, tham vấn là hoạt động nhằm giúp đỡ con người tự giúp chính họ, hoạt động này giúp đối tượng (người cần được tham vấn) nâng cao khả năng tự tìm giải pháp, đối phó với vấn đề và thực hiện tốt chức năng của mình trong cuộc sống. J. Mielke (1999) định nghĩa tham vấn là một quá trình, một mối quan hệ nhằm giúp đỡ thân chủ cải thiện cuộc sống của họ bằng cách khai thác, nhận thức và thấu hiểu những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của thân chủ. PGS. TS. Trần Thị Minh Đức định nghĩa tham vấn là một quá trình tương tác giữa nhà tham vấn - người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có các phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn - với thân chủ (còn được gọi là khách hàng) - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lý cần được giúp đỡ. Thông qua sự trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình (dựa trên những nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. 3 Nghiên cứu những khái niệm trên ta thấy những yếu tố cơ bản và chung nhất của tham vấn là: Thứ nhất: Mục tiêu của quá trình tham vấn là giúp đối tượng nâng cao nhận thức về bản thân, môi trường và hoàn cảnh, tăng cường khả năng ra quyết định phù hợp với hoàn cảnh của mình và thực hiện quyết định một cách hiệu quả. Mục tiêu cuối cùng của tham vấn là giúp cho đối tượng tăng cường khả năng đối phó với vấn đề cũng như chức năng xã hội của họ. Thứ hai: Đây là một hoạt động trợ giúp - giúp đối tượng “tự giúp chính mình" thông qua mối quan hệ tương tác tích cực giữa nhà tham vấn với người cần được tham vấn. Như vậy, ở đây đòi hỏi có sự tham gia nhiệt tình của cả hai phía vào toàn bộ quá trình giải quyết vấn đề: từ thu thập thông tin tới ra quyết định, triển khai thực hiện và đánh giá kết quả. Thứ ba: Nhà tham vấn với những đạo đức nghề nghiệp, sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn khai thác hoàn cảnh, cảm xúc và hành vi của đối tượng để giúp họ tạo sự thay đổi. Kiến thức nền tảng của nhà tham vấn là lý thuyết về tâm lý, những hiểu biết về hành vi con người. Các kỹ năng nhà tham vấn cần được trang bị là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đặc thù trong tham vấn. Thứ tư: Người cần được tham vấn là người vì lý do nào đó trở nên mất cân bằng trong cuộc sống, khiến họ lúng túng, bối rối, cảm thấy không thể tìm ra giải pháp. Trong tình huống đó, họ thường có những cảm xúc, hành vi, suy nghĩ không phù hợp. Để giúp đỡ các cá nhân và gia đình duy trì được sự thăng bằng tâm lý, tăng cường khả năng đối phó với các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày, nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển đã sử dụng dịch vụ tham vấn như một công cụ đắc lực. Nếu như ngành y là công cụ để giúp con người trở nên khỏe mạnh, cường tráng về thể lực thì các hoạt động trợ giúp (helping profession) trong đó có tham vấn đóng vai trò giúp cho cá nhân và gia đình đảm bảo tình trạng sức khoẻ tâm thần, nâng cao chất lượng cuộc sống. Ở các nước phương Tây, kể cả một số nước trong khu vực như Singapo, Thái Lan, v.v... trong mỗi khu dân cư với số lượng vài chục nghìn dân, người ta thường bố trí một trung tâm tham vấn (Counseling Center) hay văn phòng dịch vụ gia đình (Family Services) để triển khai các hoạt động trợ giúp xã hội. Singapo với số dân chưa đến 4 triệu nhưng có tới trên 300 cơ sở thực hiện dịch vụ này. Hệ thống dịch vụ gia đình hay trung tâm tham vấn tỏ ra rất hữu hiệu trong giúp đỡ cá nhân và gia đình tháo gỡ những khó khăn, đặc biệt là trong quan hệ hôn nhân, gia đình, hay trong nuôi dạy con cái. Cũng không ít các trung tâm hay dịch vụ gia đình sử dụng các hình thức tham vấn cá nhân, tham vấn gia đình hay tham vấn nhóm để giúp đỡ những người nghiện hút, trẻ em bị phạm pháp v.v... Dịch vụ tham vấn còn được đưa vào trong hệ thống các trường học. Tại các trường phổ thông, người ta sử dụng mô hình Công tác xã hội học đường (School 4 Social Work) trong đó có hoạt động tham vấn nhằm giúp đỡ những học sinh, phụ huynh học sinh có con có khó khăn trong hành vi và học tập, giải quyết những mối quan hệ bất đồng giữa thầy cô và học sinh, giữa học sinh và học sinh. Theo kết quả điều tra của Lim Peng Ann năm 1999, có tới 60% số trường phổ thông Singapo có triển khai công tác xã hội học đường, trong đó có hoạt động tham vấn toàn thời gian hay bán thời gian. Hầu hết các trường đại học, cao đẳng ở các nước phát triển đều có trung tâm tham vấn (Student’s Counceling Center) nhằm giúp sinh viên giải toả những khó khăn trong học tập, trong quan hệ bạn bè, gia đình và các quan hệ xã hội khác. Những khó khăn trong hoà nhập của các sinh viên sẽ được trung tâm này giúp đỡ tháo gỡ qua loại hình tham vấn nhóm hay tư vấn cung cấp thông tin. Sự căng thẳng trong học tập ở cường độ cao của các sinh viên là một trong những vấn đề thường gặp và được các nhà tham vấn tại trung tâm hỗ trợ giải tỏa thông qua các hình thức tham vấn khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù còn nhiều tranh luận về thuật ngữ, song kết quả một số điều tra, nghiên cứu gần đây như của Trường Cao đẳng Lao động - Xã hội (1997, 2004), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội (2002), Khoa Tâm lý - Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2004) v.v... cũng như hoạt động thực tiễn cho thấy nhu cầu của loại hình dịch vụ này đang có chiều hướng tăng lên, đặc biệt là ở các khu vực đô thị, thành phố lớn. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian vừa qua đã đem lại thành tựu nhất định về kinh tế - xã hội, tuy nhiên cũng không ít các vấn đề xã hội như mặt trái của quá trình này đã nảy sinh và gia tăng. Sự phân cách giàu nghèo, thất nghiệp đã khiến cho hàng ngàn người di cư từ nông thôn ra thành phố để lao động kiếm sống. Không ít trẻ em lang thang trên đường phố kiếm sống đã trở nên thất học, bị lạm dụng thân thể và tình dục hay trở thành trẻ phạm pháp, nghiện hút. Một nghiên cứu gần đây ở Việt Nam (2004) có đưa ra con số về lạm dụng tình dục trẻ em là 3%. Nếu so sánh với tỷ lệ trẻ bị lạm dụng tình dục ở một số nước phát triển như Mỹ, Anh, Úc (1 trong 3 trẻ em gái và 1 trong 6 trẻ em trai) thì tỷ lệ này (3%) chưa phải là cao, nhưng đây cũng là một vấn đề mà các nhà chức trách về bảo vệ trẻ em quan tâm và khuyến cáo các bậc phụ huynh cũng như các thầy cô trong trường học cần có ý thức bảo vệ các em trước những hành vi lạm dụng. Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội như mại dâm, nghiện hút, HIV/AIDS đang có chiều hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê gần đây của Bộ Y tế, ở Việt Nam tính đến tháng 10/2004 HIV/AIDS có mặt ở 61/64 tỉnh thành trong cả nước với 86.000 ca nhiễm. Điều đáng lưu ý là tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS ở phụ nữ có thai ở nuớc ta tăng gấp 10 lần so với 1995 (Theo báo Nhân dân số 18019, ngày 1/12/2004). Để giải quyết vấn đề này, bên cạnh chính sách điều trị mang tính y học, Nhà nước ta còn phát động các hoạt động hòa nhập cộng đồng cho những người hoàn lương, người bị nhiễm HIV/AIDS. Việc phát triển dịch vụ tham vấn sẽ 5 góp phần thúc đẩy tiến trình này thông qua việc giúp đỡ họ vượt qua mặc cảm để trở lại với gia đình và cộng đồng. Nhịp sống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đã giúp cho con người trở nên năng động và nhạy bén hơn, song cũng làm cho họ luôn phải đối mặt với stress nhiều hơn. Áp lực của công việc, sự cạnh tranh trong học tập, kinh doanh hay thăng tiến làm cho người ta luôn ở trong tình trạng căng thẳng thần kinh. Hiện tượng quá tải trong học tập dẫn đến rối nhiễu hành vi ở một số em nhỏ cũng đang là vấn đề được xã hội quan tâm. Cuộc sống hiện đại với những mối giao lưu xã hội theo phong cách mới cũng đã làm thay đổi những nét truyền thống vốn có, làm cho không ít gia đình rơi vào khủng hoảng. Đứng trước những mâu thuẫn, áp lực của cuộc sống hàng ngày, không ít cá nhân và gia đình trở nên bối rối, đôi khi họ cảm thấy không thể vượt qua và đã tìm đến giải pháp tiêu cực. Để góp phần giúp đỡ cá nhân và gia đình giải quyết các vấn đề tâm lý xã hội trên, hiện nay ở nước ta đang tồn tại hoạt động tư vấn (tâm lý) tại trung tâm, qua điện thoại hay các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tuy nhiên kết quả chưa được như mong đợi. Có thể nói, hoạt động tham vấn ở nước ta chưa phát triển cả về qui mô lẫn chất lượng. Hệ thống trung tâm tham vấn còn quá nhỏ. Chất lượng dịch vụ của các cơ sở đang hoạt động còn chưa cao. Để khắc phục được điều này, đòi hỏi có sự tham gia của các cơ quan quản lý chức năng, cơ quan nghiên cứu và đào tạo. Tâm lý học với vai trò là lĩnh vực khoa học cung cấp nền tảng lý luận cho hoạt động tham vấn, do vậy những nghiên cứu ứng dụng của nó sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của loại hình dịch vụ này. Hơn thế nữa, điều này còn góp phần tạo nên sự chuyển mình của ngành tâm lý học ở nước ta khi nó đã thực sự tham gia vào đời sống thực tiễn mỗi cá nhân, gia đình trong xã hội.