Tế bào là đơn vị cấu tạo cơ bản của cơ thể sống, có đầy đủ các tính chất của sựsống. Cơ thể thực vật cũng như bất kỳ một cơ thể sống nào khác, đều được cấu tạo từ tế bào.
Một số loài thực vật, cơ thể chỉ gồm 1 tế bào: một số loài tảo đơn bàoChlamydomonas, Chlorella) - ở những cơ thể này mọi quá trình sống: sinh trưởng,phát triển, đồng hoá, phân giải. đều do bản thân tế bào đó đảm nhận -điều đó chứng tỏ nó là một đơn vị sống độc lập. Một vài trường hợp đặc biệt như tảo không đốt (Vaucheria) cơ thể có cấu tạo cộng bào -nghĩa là cơ thể của chúng gồm nhiều tế bào chung nhau, không có vách ngăn.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2641 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khái niệm về tế bào thực vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHÁI NIỆM VỀ TẾ BÀO THỰC VẬT 
1. Định nghĩa 
Tế bào là đơn vị cấu tạo cơ bản của cơ thể sống, có 
đầy đủ các tính chất của sự 
sống. Cơ thể thực vật cũng như bất kỳ một cơ thể 
sống nào khác, đều được cấu tạo 
từ tế bào. 
Một số loài thực vật, cơ thể chỉ gồm 1 tế bào: một số 
loài tảo đơn bào 
Chlamydomonas, Chlorella) - ở những cơ thể này 
mọi quá trình sống: sinh trưởng, 
phát triển, đồng hoá, phân giải... đều do bản thân tế 
bào đó đảm nhận - điều đó 
chứng tỏ nó là một đơn vị sống độc lập. Một vài 
trường hợp đặc biệt như tảo không 
đốt (Vaucheria) cơ thể có cấu tạo cộng bào - nghĩa là 
cơ thể của chúng gồm nhiều 
tế bào chung nhau, không có vách ngăn. Hầu hết 
những loài thực vật khác đều là 
những cơ thể đa bào, cơ thể được cấu tạo từ rất nhiều 
tế bào, trong đó mỗi nhóm tế 
bào thực hiện một chức phận riêng biệt và hợp thành 
mô thực vật. 
Tế bào thực vật là đơn vị giải phẫu và sinh lý của cơ 
thể thực vật. Cấu tạo của 
tế bào rất phức tạp, tất cả các bộ phận của nó đều đạt 
đến mức độ phân hoá cao về 
hình thái và chuyên hoá về chức năng rất cao. 
2. Thành phần, cấu tạo của tế bào thực vật 
2.1. Hình dạng và kích thước của tế bào thực vật 
Các tế bào thực vật có hình dạng rất khác nhau, tuỳ 
thuộc vào từng loài 
và từng loại mô thực vật. Ở các loài tảo, tế bào có 
hình dạng rất đa dạng: 
Hình 1.1. Các loại tế 
bào thực vật 
A. Tế bào sợi; B. Tế 
bào mô phân sinh; C. 
Tế bào mô dự trữ 
chứa hạt tinh bột; D. 
Tế bào biểu bì; E. Tế 
bào hai nhân; F. Tế 
bào mô đồng hóa với 
với các hạt lạp lục; 
G. Tế bào mô cứng; 
H. Tế bào rây và tế 
bào kèm. 
6 
hình cầu (tảo tiểu cầu- Chlorella), hình trứng (tảo lục 
đơn bào - 
Chlamydomonas) hay hình cong lưỡi liềm (tảo lưỡi 
liềm - Closterium). 
Ở cơ thể thực vật bậc cao, hình dạng của tế bào 
thường được phân thành 2 
nhóm có liên quan đến các chức năng khác nhau 
- Nhóm tế bào nhu mô (Parenchyma): là những tế bào 
có dạng tròn, bầu dục, 
đa giác, hình đĩa, hình phiến, hình sao... thường tròn 
ở góc, kích thước giữa các 
chiều ít có sự chênh lệch nhau. Tế bào nhu mô 
thường là những tế bào sống, có 
màng mỏng, những tế bào này thường tạo nên các 
loại mô cơ bản của cơ thể thực 
vật như phần ruột và vỏ của thân và rễ, các mô của lá, 
hoa, quả và hạt... các tế bào 
này thường có nhiệm vụ dự trữ hay sinh sản. 
- Nhóm tế bào hình thoi (Prosenchyma): là những tế 
bào có dạng hình thoi 
kéo dài, chiều dài gấp nhiều lần chiều rộng, hai đầu 
thường vát nhọn, những tế bào 
này thường có màng dày, thường không có nội chất, 
chúng chủ yếu tạo nên các 
mô dẫn và mô cơ của cơ thể thực vật, có nhiệm vụ 
vận chuyển các chất ở trong cơ 
thể thực vật và có nhiệm vụ nâng đỡ cây. 
Tuy nhiên, sự phân biệt hình dạng của 2 nhóm tế bào 
này chỉ thấy rõ trên lát 
cắt dọc, còn trên lát cắt ngang chúng rất khó phân 
biệt. 
Kích thước của tế bào thực vật cũng rất biến đổi: nhìn 
chung tế bào thực vật 
rất nhỏ bé, phải sử dụng kính hiển vi mới có khả năng 
quan sát được; kích thước 
trung bình vào khoảng 10 - 1000 m. Song cũng có 
những tế bào có thể nhìn thấy 
bằng mắt thường: tế bào thịt quả dưa hấu, tép bưởi, 
tép cam, sợi đay, sợi gai, sợi 
bông... 
2.2. Cấu tạo của tế bào thực vật 
Tế bào thực vật có cấu tạo rất phức tạp, thường gồm 
2 thành phần cơ bản sau 
đây: 
- Chất nguyên sinh: là chất sống của tế bào, có cấu 
tạo rất phức tạp, thường 
gồm các thành phần cơ bản sau đây: tế bào chất, 
nhân, ty thể, lạp thể, thể golgi, 
mạng lưới nội sinh chất... 
- Thành phần không sống: được hình thành do hoạt 
động của chất nguyên sinh 
tạo nên, bao gồm: vách tế bào, không bào và dịch tế 
bào, các thể ẩn nhập, chất dự 
trữ... 
2.2.1. Tế bào chất (chất tế bào) 
Tế bào chất là chất sống cơ bản, là thành phần cơ bản 
và bắt buộc của tế bào, tại 
đây xảy ra các quá trình tiêu biểu cho hoạt động sống 
của tế bào. Ở những tế bào còn 
non, chất tế '62ào chiếm một phần lớn hay hầu hết 
khoang tế bào. Trong quá trình sinh 
trưởng và phát triển của tế bào, dần dần xuất hiện 
không bào chứa một chất lỏng gọi 
là dịch tế bào, tế bào càng già không bào càng lớn, do 
đó chất tế bào về sau chỉ còn 
lại một lớp mỏng nằm sát màng. 
7 
a. Tính chất lý học 
Tế bào chất là một chất lỏng không màu và hơi trong 
suốt, nhớt, có tính đàn 
hồi, không hoà tan trong nước, nặng hơn nước (có tỷ 
trọng d = 1,04-1,06), có tính 
chiết quang hơn nước, khi bị đun nóng tới 50oC - 
60oC thì tế bào chất sẽ mất khả 
năng sống. Tuy vậy, tế bào chất của một số hạt, quả 
khô và của một số bào tử có thể 
chịu được nhiệt độ cao hơn (từ 80oC - 100 oC). 
Tế bào chất là một dạng chất keo nhớt, cấu tạo bởi 
những phân tử hợp lại 
thành các hạt rất nhỏ gọi là mixen keo. Các mixen 
keo mang điện tích cùng dấu sẽ 
đẩy nhau và gây chuyển động hỗn loạn gọi là chuyển 
động Brown. Ngoài ra, các 
mixen này không tan trong nước thành dung dịch thật 
mà chỉ phân tán trong đó 
thành các dung dịch giả. 
Độ nhớt của tế bào chất có thể thay đổi, nghĩa là hệ 
thống keo của nó vừa có 
thể ở trạng thái lỏng (sol) vừa có thể ở trạng thái đặc 
(gel). Trạng thái sol đặc trưng 
cho độ nhớt của chất tế bào, còn trạng thái gel gần 
với thể rắn hơn, do đó nó đảm 
bảo hình dạng ổn định của chất tế bào . 
b. Thành phần hoá học 
Tế bào chất có nhiều thành phần hoá học khác nhau, 
nhưng quan trọng nhất là 
protein, không có tế bào chất nào lại vắng mặt protein 
- đó là chất cơ bản của của 
quá trình sống. Ngoài protein, trong tế bào chất còn 
có nhiều thành phần hoá học 
khác nữa: glucid, lipid, nước... Khi nghiên cứu trên 
nhiều đối tượng khác nhau, 
người ta đã thu được những số liệu sau đây về thành 
phần hoá học của tế bào chất: 
nước 75 - 80%, protein:10 - 20%, lipid: 2 - 5%, 
glucid: 1 - 2%, muối khoáng: 1% 
(theo N.X. Kixeleva). 
Như vậy, trong tế bào chất nước chiếm 1 tỷ lệ rất lớn 
(trên dưới 80% chỉ trừ 
vài trường hợp như các hạt khô hàm lượng nước có 
thể hạ xuống 12 - 14%, đứng 
sau nước hàm lượng protein cũng chiếm 1 tỷ lệ khá 
lớn trong tế bào chất). 
+ Protein: trong thành phần hoá học của tế bào chất 
có 2 loại protein: Protein 
đơn giản (holoprotein hay protein) và protein phức 
tạp (heteroprotein) - đó là 
những hợp chất protein kết hợp với các hợp chất khác 
như: glucid, lipid, axit 
nucleic, axit phosphoric... 
+ Lipid: là những este của glyxerin và axit béo, nó 
chiếm hơn 20% khối lượng 
khô của tế bào chất, lipid không phải là chất sống mà 
là sản phẩm của sự trao đổi 
chất, chủ yếu ở trong các chất dự trữ: các giọt dầu, 
mỡ ... thường có trong một số 
hạt và quả... Trong tế bào chất, lipid có thể kết hợp 
với protein thành hợp chất 
lipoprotein - chất này có mặt trong ty thể, dùng cung 
cấp năng lượng. Một số hợp 
chất lipid cũng gặp trong vách của tế bào và màng 
nhân. 
+ Glucid: chiếm khoảng 4 - 6% trọng lượng khô của 
tế bào chất, gồm các loại 
đường đơn giản (monosaccharide): glucose, ribose, 
desoxyribose... và những loại 
8 
đường phức tạp (polysaccharide): Saccharose, tinh 
bột và cellulose... Các glucidđặc 
biệt là monosaccharide có vai trò rất quan trọng trong 
sự trao đổi chất của tế 
bào, trừ ribose và desoxyribose tham gia vào các chất 
sống vá có ý nghĩa sinh học 
rất quan trọng, các glucid khác tuy không phải là các 
chất sống thật sự nhưng lại là 
một trong những nguồn năng lượng của tế bào. 
+ Muối khoáng vô cơ: trong tế bào chất, các thành 
phần muối vô cơ chiếm 2 - 
6 % trọng lượng khô, chúng thường ở dưới dạng các 
hợp chất muối hoặc có trong 
các hợp chất với protein, glucid, lipid... Trong tế bào 
chất, các loại muối thường ở 
trạng thái phân ly thành các ion mang điện tích 
dương như K +, Mg++, Ca++ , Fe++... 
và các ion mang điện tích âm như Cl-, N03 
-, PO4 3- . Ngoài ra còn có một số 
nguyên tố vi lượng khác như Cu, Mn, Br... 
+ Nước: trong tế bào chất, nước chiếm trên dưới 80% 
khối lượng của tế bào 
chất, nước cần thiết cho 2 quá trình thuỷ phân và oxy 
hoá thường xuyên xảy ra bên 
trong tế bào. Trong tế bào chất có 2 dạng nước: 
- Nước liên kết: bao quanh các phân tử keo, là điều 
kiện để duy trì độ bền của keo 
trong chất tế bào, dạng nước này không đóng vai trò 
dung môi đối với các chất hoà tan 
được trong nước. Sự mất loại nước này làm cho tế 
bào và mô bị xẹp đi, do đó loại nước 
này rất cần thiết cho sự sống của tế bào, mô. 
- Nước tự do: là môi trường để thực hiện mọi quá 
trình sinh hoá diễn ra trong 
tế bào. Nó có thể hoà tan muối và các chất khác, dạng 
nước này chiếm phần lớn 
khối lượng nước của tế bào. 
c. Cấu trúc siêu hiển vi của tế bào chất 
Khi quan sát tế bào dưới kính hiển vi quang học, ta 
thấy tế bào chất là một 
khối đồng nhất về quang học. Tuy nhiên, khi quan sát 
tế bào dưới kính hiển vi điện 
tử đã cho ta thấy được cấu trúc siêu hiển vi của tế bào 
chất. Tế bào chất của tế bào 
thực vật có 3 lớp màng: 
- Màng nguyên sinh: có đặc tính cơ bản của chất 
nguyên sinh bởi tính thấm 
phân biệt và khả năng dịch chuyển tích cực các chất, 
thậm chí còn chống lại cả 
gradiel nồng độ (Clander,1959). Những màng mỏng 
này khó có thể nhận biết được 
bằng kính hiển vi quang học, nhưng ở kính kiển vi 
điện tử người ta có thể khẳng 
định được đặc tính hình thái của chúng 
(Mercer,1960). Chúng có thể xuất hiện 
những đường đơn hoặc kép tuỳ thuộc vào tiêu bản và 
mức độ phân tích, màng trong 
đôi khi nhỏ hơn màng ngoài (Falk và Sitte,1963). 
- Màng không bào: là những phần chất nguyên sinh 
bao quanh các không bào. 
Cả hai lớp màng nguyên sinh và màng không bào đều 
có cùng một cấu tạo 
phân tử lipoprotein. 
- Phần cơ bản giữa hai lớp màng có cấu tạo phức tạp. 
Theo K.Pocte và cộng 
sự (1943) đã xác định: chúng được cấu tạo từ một hệ 
thống các xoang, các túi nhỏ 
9 
và các rãnh có cấu tạo như màng nguyên sinh và 
màng không bào. Hệ thống đó 
được gọi là mạng lưới nội chất. Thành mạng lưới nội 
chất có thể nhẵn hay mang các 
hạt riboxom, chúng không bền vững, số lượng và sự 
phân bố có sự thay đổi trong 
quá trình sống của tế bào. Mạng lưới nội chất cung 
cấp cho tế bào một bề dày màng 
mỏng bên trong rộng lớn, các enzyme thường phân 
bố thứ tự dọc theo các màng đó 
và cũng cung cấp cho tế bào một hệ thống các ngăn 
như tách riêng các sản phẩm 
trao đổi chất và có thể được vận chuyển từ phần này 
đến phần khác của tế bào. 
Màng nguyên sinh và màng không bào đều rất mỏng, 
có độ dày thường từ 7 - 
12nm, có cấu tạo bởi 3 lớp phân tử: ở giữa là lớp 
phân tử lipid phân cực, còn phía 
ngoài là 2 lớp phân tử protein. Cả 2 lớp màng này 
đều giàu lipid và đều có tính bán 
thấm chọn lọc: có khả năng để cho nước và các chất 
hoà tan cần thiết thấm qua, có 
tính đàn hồi và có khả năng tái sinh, chúng hợp hành 
màng cơ sở của tế bào. 
Trong phần chất cơ bản, còn một chất nền trong suốt 
không màu được gọi là 
chất nền, là phần nằm ngoài các màng mỏng của 
mạng lưới nội chất. 
d. Tính chất sinh lý của tế bào chất 
+ Tính thấm chọn lọc 
Là khả năng hút được chất này hay chất khác từ môi 
trường xung quanh vào tế 
bào và ngược lại nhả một số chất vào môi trường khi 
nồng độ dung dịch bên trong 
tế bào và ngoài môi trường chênh lệch nhau. 
Tế bào chất có thể được xem như một màng bán thấm 
có tính chọn lọc, nghĩa 
là có khả năng cho dung môi thấm qua, còn các chất 
hoà tan trong không bào không 
thể lọt qua được hoặc nếu có thì thấm qua với tốc độ 
chậm hơn nước rất nhiều. 
Tính chất này của tế bào chất được thể hiện khá rõ 
trong hiện tượng co nguyên sinh 
và phản co nguyên sinh của tế bào chất. 
+ Sự chuyển động của chất tế bào 
Sự chuyển động của tế bào chất là đặc tính của các tế 
bào sống, trong quá trình 
chuyển động, tế bào chất đã lôi kéo những nội bào 
quan, đôi khi cả tế bào chuyển 
động theo. Sự chuyển động của tế bào chất có thể 
quan sát dễ dàng dưới kình hiển 
vi quang học, có thể phân biệt 3 dạng chuyển động 
sau đây của chất tế bào: 
- Chuyển động amip: tế bào chất có thể chuyển động 
theo nhiều hướng khác 
nhau bằng những xúc tu giả, sự chuyển động này kéo 
theo sự chuyển động của cả tế 
bào, thường gặp u7903 . các tế bào nấm nhầy 
(myxomycetes). 
- Chuyển động vòng: chuyển động của tế bào chất 
theo một hướng xung quanh 
không bào trung tâm, chuyển động như vậy ở các tế 
bào lân cận thường xảy ra theo 
hướng ngược chiều nhau, kiểu chuyển động này 
thường gặp trong các tế bào của lá 
những cây ở nước như rong Mái chèo (Vallisneria 
spiralis) và rong Đuôi chồn 
(Hydrilla verticillata). 
10 
- Chuyển động khuếch tán: tế bào chất chuyển động 
theo những dải xuyên 
qua không bào trung tâm theo các hướng khác nhau 
có khi ngược chiều nhau, kiểu 
chuyển động này có thể thấy ở lông các loài Thài lài 
(Tradescantia) và Bí ngô 
(Cucurbita pepo). 
Ngoài ra, còn có hình thức chuyển động trung gian 
giữa kiểu chuyển động 
vòng và chuyển động khuếch tán, thường thấy ở tế 
bào chất của lông rễ các cây ở 
nước (hydrocharia). Kiểu chuyển động dao động của 
chất tế bào là kiểu đơn giản 
hơn cả, đặc trưng cho các loài tảo như closterium, 
Spirogyra... 
Về cơ chế và chức năng chuyển động của chất tế bào 
đến nay vẫn còn chưa 
được nghiên cứu kỹ, rất có thể sự chuyển động này 
giúp cho sự vận chuyển các chất 
cần thiết trong chất nguyên sinh. 
e. Sợi liên bào và sự liên lạc giữa các tế bào 
Trong những cơ thể thực vật đa bào, tế bào chất của 
những tế bào ở gần nhau 
được liên hệ chặt chẽ với nhau nhờ những sợi mảnh 
chất tế bào xuyên qua vách tế 
bào - gọi là sợi liên bào. Chức năng chủ yếu của sợi 
liên bào là mang những sản 
phẩm trao đổi chất và dẫn truyền kích thích do ảnh 
hưởng của các nhân tố bên 
ngoài, từ chỗ nhận kích thích truyền vào sâu ở bên 
trong của các cơ quan. Như vậy, 
giữa các tế bào có sự giao lưu rõ ràng và mối liên hệ 
thường xuyên. 
2.2.2. Lạp thể 
Lạp thể là những nội bào quan nhỏ đặc trưng cho tế 
bào thực vật (không có ở 
vi khuẩn, tảo lam và nấm), chúng có vai trò rất quan 
trọng đối với các quá trình 
dinh dưỡng của tế bào. 
Tuỳ theo sự có mặt của các loại sắc tố chứa bên trong 
lạp thể, người ta chia 
lạp thể làm 3 loại: lạp lục, lạp màu và lạp không 
màu. 
Sự phân chia thành các loại lạp nói trên mang tính 
chất tương đối, vì các loại 
lạp thể này đều có chung một nguồn gốc và giữa 
chúng có sự chuyển hoá lẫn nhau: 
a. Lạp lục (Chloroplaste) 
Lạp lục là loại lạp thể có chứa các sắc tố màu lục gọi 
là chất diệp lục 
(Chlorophyll), lạp lục có mặt trong tất cả các phần 
xanh của cây như: lá, thân, cành 
non của cây...