Khái quát về dịch vụ viễn thông và chất lượng dịch vụ viễn thông

Có rất nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ nhưng ta có thể đưa ra một quan điểm chung nhất về dịch vụ như sau: Dịch vụ là những hoạt động lao động tạo ra các sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu, nhằm thoả mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Bất kỳ một tổ chức sản xuất dịch vụ nào cũng đều hình thành những hệ thống cung ứng về dịch vụ của mình. Không có các hệ thống này thì không thể có dịch vụ. Mỗi một loại dịch vụ cụ thể đều gắn liền với một hệ thống cung ứng nhất định. Hệ thống này lại gắn kết với những ý tưởng, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp và mức độ cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Chính vì vậy khi đề cập đến dịch vụ không thể không nói đến hệ thống cung cấp dịch vụ.

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 3841 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khái quát về dịch vụ viễn thông và chất lượng dịch vụ viễn thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 Khái quát về dịch vụ viễn thông và chất lượng dịch vụ viễn thông Dịch vụ và đặc điểm của dịch vụ 1.1.1 Khai niem dich vu Có rất nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ nhưng ta có thể đưa ra một quan điểm chung nhất về dịch vụ như sau: Dịch vụ là những hoạt động lao động tạo ra các sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu, nhằm thoả mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Bất kỳ một tổ chức sản xuất dịch vụ nào cũng đều hình thành những hệ thống cung ứng về dịch vụ của mình. Không có các hệ thống này thì không thể có dịch vụ. Mỗi một loại dịch vụ cụ thể đều gắn liền với một hệ thống cung ứng nhất định. Hệ thống này lại gắn kết với những ý tưởng, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp và mức độ cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Chính vì vậy khi đề cập đến dịch vụ không thể không nói đến hệ thống cung cấp dịch vụ. Hệ thống cung ứng dịch vụ bao gồm các yếu tố: vật chất và con người được tổ chức chặt chẽ theo một hệ thống phối hợp hướng tới khách hàng nhằm đảm bảo thực hiện quá trình cung cấp và sử dụng dịch vụ một cách có hiệu quả. Các yếu tố trong hệ thống bao gồm: khách hàng, cơ sở vật chất cần thiết cho việc cung cấp dịch vụ, người cung ứng dịch vụ, hệ thống tổ chức nội bộ và bản thân dịch vụ. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống. Nếu có sự thay đổi một yếu tố này đều dẫn tới sự thay đổi toàn hệ thống và thay đổi loại hình dịch vụ. Hệ thống bao hàm quá trình hoạt động có định hướng, bao gồm các yếu tố vô hình và hữu hình, các yếu tố vật chất và tâm lý tình cảm đan xen nhau trong quá trình tạo ra dịch vụ. 1.2.1 Đặc điểm của dịch vụ Khác với những loại hàng hoá hữu hình khác, dịch vụ có những đặc điểm : Tính vô hình: Đặc điểm này cho thấy dịch vụ là không hiện hữu, không tồn tại dưới dạng vật thể. Người ta không thể nhìn thấy, không thể cầm nắm được. Tính vô hình của dịch vụ gây khó khăn cho quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ và nhận biết dịch vụ. Do đó, để nhận biết dịch vụ thông thường phải tìm hiểu qua những đầu mối vật chất trong môi trường hoạt động dịch vụ như các trang thiết bị, dụng cụ, ánh sáng, âm thanh… và con người có liên quan trực tiếp đến hoạt động cung cấp dịch vụ. Tính không đồng nhất: Sản phẩm dịch vụ không tiêu chuẩn hoá được do quá trình tiêu thụ gắn với quá trình sản xuất mà còn mà yếu tố con người là chủ đạo trong các khâu cung cấp chất lượng dịch vụ. Bên cạnh đó người sử dụng dịch vụ phải là những người có kinh nghiệm kiến thức sử dụng dịch vụ thì mới có thể đảm bảo được dịch vụ có tính đồng nhất về chất lượng. Tình không tách rời giữa quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ: Để nhận được hiệu quả của dịch vụ thì khách hàng phải trực tiếp đến nơi cung cấp dịch vụ hoặc có những công cụ để sử dụng dịch vụ. Quá trình sản xuất gắn với quá trình tiêu thụ của dịch vụ sẽ dẫn đến việc khó có thể sửa chữa các sai sót trong khi sử dụng dịch vụ như các hàng hoá khác. Tính không thể dự trữ được: Dịch vụ chỉ tồn tại vào thời gian mà nó được cung cấp. Do vậy, dịch vụ không thể sản xuất hàng loạt để cất vào trong kho dự trữ được, không thể cất trữ không thể vận chuyển từ nơi này đến nơi khác. Dịch vụ viễn thông 1.2.1 Khái niệm dịch vụ viễn thông Sản phẩm dịch vụ viễn thông rất đa dạng và phong phú nó bao gồm cả sản phẩm hữu hình là các thiết bị viễn thông và sản phẩm vô hình là các dịch vụ Viễn thông. Trong đó dịch vụ viễn thông có một đặc điểm chung nhất đó là kết quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức. Kết quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức được tạo nên bởi 3 tính chất cơ bản sau: Tin tức cần được chuyển giao chính xác đến người nhận tin Nội dung truyền đưa tin tức phải được đảm bảo nguyên vẹn Tin tức cần phải được đưa kịp thời đến người nhận tin Trong dịch vụ Viễn thông tồn tại hai khái niệm về sản phẩm dịch vụ đó là: S¶n phÈm hoµn chỉnh là kết quả cuối cùng trong hoạt động sản xuất của tất cả các đơn vị viễn thông về việc truyền đưa một loại tin tức hoàn chỉnh nào đó từ người gửi đến người nhận. Ví dụ: Truyền số liệu, điện thoại… từ người gửi đến người nhận. S¶n phÈm c«ng ®o¹n: lµ kết quả có ích trong hoạt động sản xuất của từng đơn vị Viễn thông về việc truyền đưa một loại tin tức ở một giai đoạn nhất định của quá trình sản xuất hoàn chỉnh. Theo qui định tại điều 37 – Nghị định CP số 109, dịch vụ viễn thông được hiểu là dịch vụ truyền đưa, lưu trữ và cung cấp thông tin bằng hình thức truyền dẫn, phát thu những ký hiệu tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh hình ảnh thông qua mạng lưới viễn thông công cộng do doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông cung cấp. Nh­ vËy viÔn th«ng lµ mét trong c¸c d¹ng trao ®æi th«ng tin vµ lµ h×nh thøc trao ®æi th«ng tin hiÖn ®¹i nhÊt. Khi nói đến viễn thông là nói đến một hệ thống cung cấp dịch vụ viễn thông bao gồm các yếu tố cấu thành nên mạng lưới cung cấp: Khách hàng, nhà cung ứng, môi trường trao đổi thông tin và các dịch vụ viễn thông do nhà cung ứng cung cấp.Trong đó, khách hàng là người có nhu cầu trao đổi thông tin và là người sử dụng dịch vụ Viễn thông đó có thể là những cá nhân, tập thể, các tổ chức doanh nghiệp hay Chính phủ. Nhà cung ứng là các doanh nghiệp cung cấp một số hay phần lớn dịch vụ viễn thông. Môi trường vật chất cần thiết cho việc cung ứng dịch vụ Viễn thông bao gồm hệ thống tổng đài, thiết bị chuyển mạch, truyền dẫn, hệ thống mạng cáp, hệ thống nhà trạm, quầy giao dịch… và con ng­êi trong doanh nghiÖp. 1.2.2 Đặc điểm của dịch vụ viễn thông Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện tạo ra các sản phẩm dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản xuất vật chất. Do đó dịch vụ viễn thông mang đầy đủ tính chất của một loại hình dịch vụ và nó còn có những đặc điểm riêng của ngành viễn thông. Thø nhÊt, tin tøc ®­îc göi – nhËn nguyªn vÑn trong qu¸ tr×nh s¶n xuÊt. Với các sản phẩm dịch vụ viễn thông, khi nhận được yêu cầu sử dụng dịch vụ từ phía khách hàng, các thông tin thoại hoặc phi thoại được mã hoá sau đó được truyền đưa qua mạng viễn thông công cộng rồi được giải mã sau đó chuyển đến cho người nhận. Nội dung và hình thức của thông tin được người gửi đi ra sao thì người nhận nhận được như vậy, không hề có sự thay đổi. Trong quá trình này có tồn tại sự thay đổi chỉ là về vị trí không gian. Hơn nữa, trong quá trình này, nội dung thông tin phải được đảm bảo an toàn tuyệt đối, không để mÊt m¸t sai l¹c th«ng tin hay ®Ó lé th«ng tin. Ngày nay, với việc hội tụ giữa tin học – Viễn thông đã tạo ra điều kiện cho ngành viễn thông có thể truyền đưa nhiều loại tin tức khác nhau thông qua việc sử dụng nhiều thiết bị, nhiều công nghệ khác nhau thì đặc điểm này càng được thể hiện rõ nét hơn. Đặc biệt là ảnh hưởng của đặc điểm này đến chỉ tiêu tốc độ ngày càng được nâng cao. Thø hai, dịch vụ Viễn thông có tính vô hình Sản phẩm Viễn thông không phải là vật phẩm được chế tạo mới, không phải là vật thể cụ thể, mà là nó là kết quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận và được thể hiện dưới dạng dịch vụ. Đặc điểm này làm cho chất lượng của dịch vụ viễn thông phụ thuộc vào sự cảm nhận của khách hàng, và do đó nó không đồng nhất vì các khách hàng luôn có nhu cầu, có sở thích khác nhau hoặc có sự thoải mãn về dịch vụ khác nhau. Cũng do dịch vụ viễn thông viễn thông không phải là vật chất cụ thể tồn tại ngoài quá trình sản xuất nên không thể đưa vào cất giữ được trong kho, không thể thay thế được. Chính vì vậy phải có những yêu cầu cao đối với chất lượng sản phẩm viễn thông. Thø ba, quá trình sản xuất dịch vụ viễn thông mang tính dây chuyền Quá trình truyền đưa tin tức là quá trình diễn ra từ hai phía. Điểm đầu và điểm cuối của một quá trình truyền đưa tin tức có thể ở các xã khác nhau, các huyện khác nhau, các tỉnh khác nhau, và các quốc gia khác nhau. Thông thường để thực hiện một đơn vị sản phẩm viễn thông cần có nhiều đơn vị sản xuất trong nước và có khi có nhiều đơn vị sản xuất ở các nước khác nhau cũng tham gia và trong quá trình đó người ta sử dụng nhiều loại thiết bị truyền thông khác nhau. Ví dụ trong một cuộc điện thoại từ Hà Tây đi quốc tế có sự tham gia của công ty viễn thông Hà Tây, công ty viễn thông quốc tế (VTI), các công ty nước được gọi đến. Như vậy, để truyền đưa một tin tức hoàn chỉnh từ người gửi đến người nhận thường có hai hay nhiều đơn vị viễn thông tham gia, mỗi đơn vị chỉ thực hiện một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh đó. §©y lµ đặc điểm quan trọng chi phối đến công tác tổ chức, quản lý hoạt động Viễn thông. Đặc biệt là công tác quản lý chất lượng sản phẩm dịch vụ cần có quy định thống nhất về thể lệ, quy trình khai thác, bảo dưỡng thiết bị, và có chính sách đầu tư xây dựng mạng lưới một cách hợp lý, thông nhất, trong công tác đào tạo nhân sự…Có như vậy dây truyền sản xuất viễn thông mới hoạt động nhịp nhàng ăn khớp với nhau. Người nhận tin DỊCH VỤ VIỄN THÔNG Người gửi tin Công đoạn đi Phục vụ khai thác kỹ thuật đường truyền Công đoạn qua Phục vụ khai thác kỹ thuật đường truyền Công đoạn đến CÔNG VIỆC CỦA MỖI DOANH NGHIỆP VIỄN THÔNG KHI TRUYỀN ĐƯA TIN TỨC Thø t­, quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ. Chu kú s¶n xuất của dịch vụ viễn thông nói chung là bao gồm các khâu như là: Sản xuất – Phân phối – Trao đổi – Tiêu dùng. Như vậy, tiêu dùng sản phẩm thông thường nằm sau quá trình sản xuất. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp, sản phẩm sau khi sản xuất được đưa vào kho sau đó thông qua mạng lưới thương nghiệp thực hiện chức năng phân phối, trao đổi sau đó người tiêu dùng mới có thể tiêu dùng được. Còn trong hoạt động thông tin viễn thông quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ, trong nhiều trường hợp qúa trình sản xuất trùng lặp với quá trình tiêu thụ. Hay nói cách khác hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức được tiêu thụ ngay trong quá trình sản xuất. Ví dụ: Trong đàm thoại, bắt đầu đăng kí đàm thoại là bắt đầu quá trình sản xuất sau quá trình tiêu dùng hiệu quả có ích của sản phẩm kết thúc thì quá trình sản xuất cũng kết thúc. Do quá trình tiêu thụ các sản phẩm viễn thông không tách rời quá trình sản xuất cho nên yêu cầu đối với chất lượng dịch vụ thông tin viễn thông phải luôn được đặt ở vị trí quan tâm hàng đầu, và là yếu tố quyết định nếu không sẽ ảnh hưởng trực tiếp ngay đến người tiêu dùng và chất lượng sản phẩm. Đối với những ngành sản xuất khác thì sản phẩm sản xuất ra phải qua khâu kiểm tra chất lượng rồi mới đưa ra thị trường, người tiêu dùng có thể từ chối không mua sản phẩm kém chất lượng. Nhưng đối với dịch vụ viễn thông có đặc điểm sản xuất gắn liền với quá trinh tiêu thụ nên nếu chất lượng dịch vụ Viễn thông kém chất lượng thì trong nhiều trường hợp có thể gây ra những hậu quả không thể bù đắp được cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong Viễn thông quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm. Quá trình người sử dụng dịch vụ viễn thông gắn liền với nhiều khâu sản xuất của doanh nghiệp viễn thông. Chất lượng hoạt động viễn thông ảnh hưởng trực tiếp đến khách hàng và ngược lại trình độ sử dụng các dịch vụ Viễn thông của khách hàng cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng dịch vụ Viễn thông. Thø n¨m, tải trong không đồng đều theo thời gian và không gian. Tải trọng là lượng tin tức đến yêu cầu chuyển đi trong một thời gian nhất định. Ngành Bưu điện nói chung và ngành Viễn thông nói riêng thực hiện chức năng truyền đưa tin tức. Để quá trình sản xuất diễn ra thì phải có tin tức, mà mọi tin tức đều do khách hàng đem tới. Như vậy, có thể nói rằng nhu cầu về truyền đưa tin tức quyết định đến sự tồn tại của ngành Bưu điện. Nhu cầu truyền đưa tin tức rất đa dạng nó không đồng đều cả về thời gian lẫn không gian, nó có thể có thể xuất hiện ở bất cứ đâu, ở đâu có con người là ở đó có nhu cầu thông tin. Thông thường thì nhu cầu truyền đưa tin tức phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt của xã hội. Vào các kỳ báo cáo ngày lễ ngày tết hay những giờ làm việc của các cơ quan ở những thành phố lớn lượng nhu cầu là rất lớn. Chính đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến công tác tổ chức sản xuất kinh doanh toàn ngành bưu chính Viễn thông. Do đó để có thể đảm bảo lưu thoát hết mọi nhu cầu về truyền đưa tin tức cần phải có một lượng dự trữ đáng kể trang thiết bị cũng như lao động vì sản phẩm không dự trữ được. Điều đó có nghĩa là năng lực sản xuất kinh doanh phải đảm bảo được khi nhu cầu về tải trọng là lớn nhất. Vấn đề này dẫn đến việc ngay cả trong một ngày hay một ca làm việc thì có giờ mà công suất sử dụng máy móc thiết bị cũng như lao động là rất thấp. Điều này nảy sinh mâu thuẫn giữa chất lượng phục vụ và hiệu quả sản xuất kinh danh. Muốn giải quyết được mâu thuẫn này, một mặt phải nghiên cứu sự thay đổi của tải trọng theo giờ trong ngày, theo ngày trong tháng, theo tháng trong năm. Mặt khác phải tìm ra các cách thức tổ chức để tổ chức sản xuất, bố trí lao động, thiết bị phù hợp với tải trọng. 1.2.3 Các loại hình dịch vụ viễn thông Theo qui định của pháp lệnh Bưu chính Viễn thông Việt Nam (Điều 37) thì dịch vụ viễn thông được chia làm các nhóm sau: Dịch vụ cơ bản: là dịch vụ truyền đưa tức thời dịch vụ Viễn thông qua mạng Viễn thông hoặc Internet mà không làm thay đổi loại hình, nội dung tin tức. Dịch vụ giá trị gia tăng: là dich vụ tăng thêm giá trị thông tin của người sử dụng dịch vụ bằng cách hoàn thiện loịa hình, nội dung thông tin hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng mạng viễn thông hoặc Internet. Dịch vụ kết nối Internet: là dịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với Internet quốc tế. Dịch vụ truy cập Internet: là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả năng truy nhập Internet Dịch vụ ứng dụng Internet trong Bưu chính Viễn thông: là dịch vụ sử dụng Internet để cung cấp dịch vụ Bưu chính Viễn thông cho người sử dông. Trong từng loại dịch vụ lại bao gồm nhiều dịch vụ nhỏ. Sau đây là một số dịch vụ viễn thông chủ yếu: Dịch vụ điện thoại Dịch vụ điện thoại là dịch vụ Viễn thông truyền đưa tin tức dưới dạng tiếng nói. Đây là dịch vụ viễn thông thông dụng nhất, cho phép người sử dụng ở hai bên đầu dây có thể trao đổi trực tiếp với nhau bằng thủ tục rất đơn giản thông qua hệ thống mạng lưới đường trục do nhà nước quản lý (Hiện tại do Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam nắm quyền sử dụng). Dịch vụ điện thoại bao gồm một số dịch vụ cụ thể: Điện thoại gọi số, điện thoại tìm người, điện thu cước ở người gọi, điện thoại gọi trực tiếp về điện thoại viên nước mình (Home Coutry Direc – HCD) Dịch vụ điện báo Là dịch vụ truyền đưa tin tức dưới hình thức chữ viết từ địa điểm này đến địa điểm khác thông qua mạng viễn thông gồm các loại: Điện báo trong nước như điện báo chuyển tiền, điện báo báo chí, điện báo phổ thông, điện báo quốc vụ…Điện báo quốc tế như: điện báo nghiệp vụ hoặc là điện báo đặc biệt như: điện báo chúc mừng, ®iÖn b¸o ph¸t nhanh, ®iÖn chia buån, ®iÖn b¸o thuª ph¸t… Dịch vụ Fax (Facsimile) Là dịch vụ truyền nguyên bản những tin tức có sẵn trên giấy tờ dưới các dạng: chữ viết, sơ đồ, biểu mẫu, bản vẽ…(gọi chung là bức fax) từ địa điểm này đến địa điểm khác qua mạng Viễn thông trong nước hoặc quốc tế, bao gồm: Fax công cộng (Bureaufax), Fax thuê bao (Telefax). Dịch vụ nhắn tin Là dịch vụ tiếp nhận và chuyển các cuộc nhắn tin một chiều từ người nhắn đến máy nhắn tin của người nhận thông qua hệ thống điện thoại công công. Muốn sử dụng dịch vụ này, khách hàng mua hoặc thuê một máy nhắn tin của Bưu điện. Người cần nhắn tin yêu cầu trung tâm nhắn tin Bưu điện chuyển lời nhắn dến người nhận có máy nhắn tin. Dịch vụ này rất tiện lợi cho những người hay di chuyển, với chi phí không lớn vẫn nhận được đầy đủ thông tin và có thể liên lạc ngay với người nhắn tin thông qua mạng điện thoại. Dịch vụ điện thoại di động Dịch vụ thông tin di động là dịch vụ thông tin vô tuyến điện. Có nhiều hệ thống thông tin di động theo những tiêu chuẩn, phổ tần sử dụng khác nhau nhưng hiện nay có ba hệ thống thông tin di động chủ yếu đó là: di động tiêu chuẩn GSM (Global System for Mobile), di động CDMA (Code Division Multiple Access - Đa truy nhập phân chia theo mã), di động nội vùng (PHS – Personal Handyphone System – HÖ thèng cÇm tay c¸ nh©n). Dịch vụ điện thoại là dịch vụ thông tin hai chiều cho phép máy điện thoại di động có thể nhận cuộc gọi đến và gọi đi của bất kỳ máy nào thuộc mạng di động hoặc mạng cố định. Tuy nhiên, phạm vi sử dụng phụ thuộc vào vùng phủ sóng. Dịch vụ điện thoại di động với thiết bị kỹ thuật số hiện đại, có độ bảo mật cao, mỗi máy có một Simcard mạng mã riêng của mỗi thuê bao và có thể sử dụng cho bất cứ máy điện thoại di động nào đạt tiêu chuẩn. Điện thoại di động cung cấp dịch vụ điện thoại và hỗ trợ thuê bao nhiều dịch vụ thuận tiện và thiết yếu khác như: Dịch vụ hiển thị hoặc không hiển thị số thuê bao gọi đến, dịch vụ chuyển tiếp cuộc gọi, dịch vụ hộp thư thoại, dịch vụ Fax số liệu, dịch vụ truy nhập Internet... Dịch vô ®iÖn tho¹i thÎ Dịch vụ điện thoại thẻ là dịch vụ Viễn thông công cộng, đảm bảo thông tin liên lạc từ các máy điện thoại thẻ đến các máy điện thoại trong nước và ngoài nước với phương thức dùng thẻ điện thoại do khách hàng mua trước của Bưu điện hoặc dùng thẻ tín dụng, ngân phiếu dự trữ… Máy điện thoại thẻ là thiết bị điện thoại khi kết nối cuộc gọi đến các máy điện thoại khác phải dùng thẻ. Màn hình máy điện thoại thẻ hiển thị rõ ràng các chỉ dẫn cần thiết cho khách hàng sử dụng. Máy điện thoại thẻ thực hiện các cuộc gọi nội hạt, liên tỉnh, quốc tế, các dịch vụ đặc biệt và đến thuê bao di động nhưng không gọi được đến các bàn khai thác trong nước và quốc tế để liên lạc đường dài trong nước và quốc tế. Dịch vụ điện thoại thấy hình (Video phone) Dịch vụ điện thoại thấy hình là một loại hình dịch vụ điện thoại mà trong quá trình đàm thoại người nói và người nghe có thể nhìn thấy hình ảnh động của nhau trên một màn hình màu nhỏ được gắn liền với máy điện thoại. C¸ch ®Êu nèi vµo m¹ng vµ c¸ch quay sè gièng như một máy điện thoại thuê bao bình thường. Khi cần nhìn thấy hình ảnh thì chỉ cần nhấn phím chức năng có chữ video trên mặt điện thoại. Điều kiện để thấy được hình ảnh là ở cả hai phía đều phải có máy điện thoại thấy hình cùng chủng loại. Có thể sử dụng điện thoại thấy hình để liên lạc ở những nơi có máy điện thoại thấy hình trong nước và ngoài nước. Các dịch vụ giá trị gia tăng của tổng đài điện tử Là các dịch vụ kèm theo dịch vụ điện thoại nhằm mục đích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình sử dụng dịch vụ điện thoại. Khách hàng có nhu cầu sử dụng chỉ cần đăng ký với cơ quan Bưu điện để được hướng dẫn thủ tục và các thao tác sử dụng từng loại dịch vụ cụ thể. Dịch vụ gia tăng giá trị cho phép khách hàng được hưởng những tiện ích nhiều mặt như: Báo thức tự động, thiết lập cuộc gọi đồng thời với hai máy điện thoại, chuyển cuộc gọi sang một máy điện thoại khác, hạn chế cuộc gọi theo yêu cầu, nhận biết số gọi đến hay quay số rút gọn cho những máy thường xuyên liên lạc… Dịch vụ truyền hình hội nghị cho phép có thể ở tại nhà hoặc là văn phòng mà vẫn tham dự hội nghị tại một nơi khác. Cầu truyền hình là một dạng của truyền hình hội nghị. Để thực hiện được dịch vụ truyền hình hội nghị phải bố trí thiết bị Camera, màn hình, hệ thống âm thanh và thiết bị đầu cuối tín hiệu hình, thoại tại các nơi diễn ra hội nghị. Nối giữa các điểm tham gia truyền hình hội nghị bằng các đường truyền dẫn cáp quang, vi ba hoặc vệ tinh. Ngoài ra tại trung tâm chính diễn ra hội nghị phải bố trí thêm thiết bị chuyển mạch luồng hình và thoại để ghép, tách các tín hiệu hình và thoại. Dịch vụ truyền hình hội nghị được thực hiện giữa hai điểm hay một điểm (nơi diễn ra hội nghị chính) với nhiều điểm khác. Dịch vụ vệ tinh (VSAT - Very Small Aperture Terminals) Th«ng tin vÖ tin VSAT được sử dụng như một hình thức mở rộng mạng Viễn thông trong nước cho những vùng mà mạng Viễn thông hiện tại chưa thể vươn tới đáp ứng nhu cầu dịch vụ của khách hàng Dịch vụ truyền số liệu Là dịch vụ mà khách hàng sử dụng để đảm bảo việc truyền số l
Tài liệu liên quan