1. Francisco de Pina hay là buổi bình minh của
chữ Quốc ngữ
Sử dụng các mẫu tự Latinh để ký âm tiếng Việt với
mục đích truyền đạo Công giáo vào xứ Đàng Trong
ở tiền bán thế kỷ XVII, các giáo sĩ Dòng Tên không
bao giờ ngờ rằng họ đã để lại một món quà vô giá
cho dân tộc Việt Nam, đó là chữ Quốc ngữ. Ngày nay,
chẳng ai hoài nghi về sự tiện ích tuyệt đối của chữ
Quốc ngữ đối với nền quốc học và sự nghiệp phát
triển văn hóa nước nhà, nhưng mấy ai biết chữ Quốc
ngữ đã được khai sinh bởi một giáo sĩ người Bồ Đào
Nha, tên là Francisco de Pina, tại một làng quê dân dã
ở tỉnh Quảng Nam, đó là làng Thanh Chiêm.
Vào đầu thế kỷ XVII, một Giáo đoàn Kitô gồm hơn
20 giáo sĩ Dòng Tên, đó là các linh mục và thầy giảng
người Bồ Đào Nha, Ý, Pháp mà trong đó đa phần là
người Bồ Đào Nha, được phái đến xứ Đàng Trong thay
vì Nhật Bản với mục đích truyền đạo Công giáo. Năm
1615, các giáo sĩ tiên phong trong Giáo đoàn đã đến
Đà Nẵng để tìm cách thiết lập cơ sở truyền đạo. Cho
đến năm 1623, đã có hai trú sở truyền đạo chính thức
được mở, một tại Hội An (Residentia Fayfó) và một tại
Nước Mặn (Residentia Nuœcman, Pulocambi) thuộc
Quy Nhơn, và hai năm sau (1625) thì lập trú sở truyền
đạo thứ ba tại dinh trấn Thanh Chiêm. Ban đầu, sứ
mệnh gieo đức tin Thiên Chúa diễn ra một cách khó
khăn do cách biệt ngôn ngữ, các giáo sĩ không thể
hiểu dân địa phương nói gì bởi ngôn ngữ ở đây là một
thứ “tiếng như âm nhạc, nghe như chim hót”. Vì thế, các
giáo sĩ đã sử dụng những mẫu tự Latinh để ký âm
tiếng Việt nhằm phục vụ cho việc học tập ngôn ngữ
bản địa và quan trọng hơn là có thể trực tiếp giảng
đạo mà không cần phiên dịch.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 316 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khai sinh chữ Quốc ngữ (từ 1620 đến 1659), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
KHAI SINH CHỮ QUỐC NGỮ
(từ 1620 đếN 1659)
? ĐINH TRọNG TUYÊN* - ĐINH Bá TRUYỀN**
* Nhà nghiên cứu ở Quảng Nam.
** Nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ.
1. Francisco de Pina hay là buổi bình minh của
chữ Quốc ngữ
Sử dụng các mẫu tự Latinh để ký âm tiếng Việt với
mục đích truyền đạo Công giáo vào xứ Đàng Trong
ở tiền bán thế kỷ XVII, các giáo sĩ Dòng Tên không
bao giờ ngờ rằng họ đã để lại một món quà vô giá
cho dân tộc Việt Nam, đó là chữ Quốc ngữ. Ngày nay,
chẳng ai hoài nghi về sự tiện ích tuyệt đối của chữ
Quốc ngữ đối với nền quốc học và sự nghiệp phát
triển văn hóa nước nhà, nhưng mấy ai biết chữ Quốc
ngữ đã được khai sinh bởi một giáo sĩ người Bồ Đào
Nha, tên là Francisco de Pina, tại một làng quê dân dã
ở tỉnh Quảng Nam, đó là làng Thanh Chiêm.
Vào đầu thế kỷ XVII, một Giáo đoàn Kitô gồm hơn
20 giáo sĩ Dòng Tên, đó là các linh mục và thầy giảng
người Bồ Đào Nha, Ý, Pháp mà trong đó đa phần là
người Bồ Đào Nha, được phái đến xứ Đàng Trong thay
vì Nhật Bản với mục đích truyền đạo Công giáo. Năm
1615, các giáo sĩ tiên phong trong Giáo đoàn đã đến
Đà Nẵng để tìm cách thiết lập cơ sở truyền đạo. Cho
đến năm 1623, đã có hai trú sở truyền đạo chính thức
được mở, một tại Hội An (Residentia Fayfó) và một tại
Nước Mặn (Residentia Nuœcman, Pulocambi) thuộc
Quy Nhơn, và hai năm sau (1625) thì lập trú sở truyền
đạo thứ ba tại dinh trấn Thanh Chiêm. Ban đầu, sứ
mệnh gieo đức tin Thiên Chúa diễn ra một cách khó
khăn do cách biệt ngôn ngữ, các giáo sĩ không thể
hiểu dân địa phương nói gì bởi ngôn ngữ ở đây là một
thứ “tiếng như âm nhạc, nghe như chim hót”. Vì thế, các
giáo sĩ đã sử dụng những mẫu tự Latinh để ký âm
tiếng Việt nhằm phục vụ cho việc học tập ngôn ngữ
bản địa và quan trọng hơn là có thể trực tiếp giảng
đạo mà không cần phiên dịch.
Theo Roland Jacques (trong tác phẩm Portuguese
Pioneers of Vietnamese Linguistics Prior to 1650/ L’oeuvre
de quelques pionniers Portugais dans le domaine de la
linguistique vietnamienne jusqu’en 1650, Bangkok:
Orchid Press, 2002), giáo sĩ Francisco de Pina là người
đầu tiên bắt tay vào thực hiện công trình Latinh hóa
tiếng Việt đầy khó khăn nhưng cũng không kém phần
vinh quang này. Cũng theo Roland Jacques thì giáo sĩ
Pina đã nhận xét tiếng Việt là một ngôn ngữ “có thanh
Nhà thờ Thiên Chúa giáo Anrê Phú Yên, (Thanh Chiêm 2, Điện
Phương, Điện Bàn, Quảng Nam) - Nơi linh mục Francisco de
Pina đặt nền tảng đầu tiên cho chữ Quốc ngữ.
58 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
điệu như một bản xướng âm, cần phải biết xướng âm
trước đã. Chỉ sau đó mới học các chữ”.
Với niềm tin sâu sắc là di cảo của giáo sĩ Pina vẫn
còn được lưu giữ ở đâu đó trên thế giới, nhà ngôn
ngữ học người Pháp Roland Jacques vất vả hàng
chục năm ròng đi tìm. May mắn thay, cuối cùng
ông đã phát hiện ra hai tác phẩm chưa công bố của
Francisco de Pina, đó là bức thư viết dở bằng Bồ ngữ
dài 7 trang cho Đức Cha bề trên Jerómino Rodríguez
ở Ma Cao và tiểu luận dài 22 trang mang tựa đề
Manuductio ad Linguam Tunkinensem (Nhập môn
tiếng Đàng Ngoài) bằng La ngữ tại Thư viện Quốc
gia ở cung điện Ajuda - Lisbon, Bồ Đào Nha. Nhờ
hai tư liệu quý giá này mà trong luận văn tiến sĩ của
mình, L’oeuvre de quelques pionniers Portugais dans
le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en
1650 (Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong
lĩnh vực Việt ngữ học trước 1650), Roland Jacques đã
chứng minh được với thế giới rằng giáo sĩ Francisco
de Pina mới chính là người đầu tiên sáng tạo ra
chữ Quốc ngữ chứ không phải là giáo sĩ Alexandre
de Rhodes như mọi người vẫn đang lầm tưởng.
Francisco de Pina sinh tại thành Guarda, thuộc
vùng Beira Alta, Bồ Đào Nha vào năm 1585 - 1586
(theo Roland Jacques) hoặc 1588 (theo Hồng Nhuệ
- Nguyễn Khắc Xuyên). Ông gia nhập vào Dòng Tên
vào khoảng năm 19 tuổi, sau đó đến xứ Goa (Ấn Độ)
sống ít lâu trước khi sang Trung Hoa. Năm 1611, tại
Học viện Thánh Phaolô, Ma Cao, ông theo học Khoa
học xã hội và tự nhiên, 4 năm về Thần học và cả tiếng
Nhật. Đến năm 1617, ông thụ phong linh mục và
được cử đến xứ Đàng Trong, làm việc tại trú sở Hội An.
Trở lại với quá trình khai sinh chữ Quốc ngữ, việc
La ngữ âm hóa tiếng bản địa không phải là sáng kiến
của Pina, bởi việc này đã được các giáo sĩ kiêm nhà
ngôn ngữ học thực hiện trước đó. Từ thế kỷ XVI, để
quảng bá Kitô giáo ra khắp thế giới một cách hữu
hiệu, những nhà truyền đạo đã được Giáo hội La Mã
khuyến khích sử dụng mẫu tự Latinh để ký âm hóa
ngôn ngữ tại địa phương nơi mà họ đang gieo Đức
tin Thiên Chúa. Theo Roland Jacques, đã có các công
trình La ngữ âm hóa tiếng Tamin (ở miền Nam, Ấn
Độ), tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa, tiếng Tupi-guarani
(tiếng bản địa của Brazil) do các giáo sĩ người Bồ Đào
Nha và Ý thực hiện trước khi Pina sáng tạo ra chữ
Quốc ngữ.
Vừa đặt chân đến Hội An, Pina lao vào học tiếng
Việt với một tinh thần hăng say đáng ngưỡng mộ và
nhờ thế, chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã có thể
trực tiếp đàm thoại với người bản địa. Giáo sĩ Gaspar
Luis đã chứng nhận điều đó: “Linh mục De Pina đến
Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên đã miệt mài
nghiên cứu tiếng nói”. Thật vậy, khi giáo sĩ Alexandre
de Rhodes đến Thanh Chiêm vào cuối năm 1624 đã
thấy Pina giảng Kinh Thánh mà không cần phiên dịch.
Có thể nói, vào thời điểm đó, Pina là vị giáo sĩ đầu
tiên và duy nhất giảng đạo trực tiếp cho giáo dân bản
địa bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Thời gian đầu Pina học
tiếng Việt tại Hội An và Nước Mặn, nhưng sau đó, vào
khoảng năm 1619, ông chuyển đến dinh trấn Thanh
Chiêm. “Vậy ông linh mục này muốn gì với Kẻ Chàm?”.
Đó là mong muốn học một ngôn ngữ thuần khiết và
tránh những ảnh hưởng xấu đến quá trình học tiếng
Việt có thể nảy sinh tại Hội An, vì nơi này đã có hiện
tượng lai tạp ngôn ngữ, bởi Phố Khách là nơi giao
thoa của các nền văn hóa Việt, Trung, Nhật, Bồ
Hơn nữa, tại Hội An, người ta chỉ quan tâm đến việc
buôn bán, Pina khó có thể tiếp cận với giới trí thức
trẻ ở địa phương ngõ hầu tìm kiếm sự cộng tác trong
quá trình nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ, nên
Pina quyết định đến dinh trấn Thanh Chiêm. Ông đã
khẳng định điều đó: “Đối với con việc nghiên cứu tiếng
nói, Kẻ Chàm vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm
triều đình: ở đây người ta nói rất hay, có sự đổ dồn của
những người trẻ tuổi đến mà họ là những sĩ tử và bên
cạnh họ, những ai bắt đầu học tiếng có thể tìm thấy một
sự giúp đỡ”. Roland Jacques cũng hoàn toàn xác nhận
ý kiến này: “Thành phố này (Hội An) từ rất xa xưa là một
thủ đô kinh tế của Champa ngay từ thiên niên kỷ thứ
nhất. Ở thế kỷ XVII, nó vẫn là thành phố chợ quan trọng,
một trung tâm thương mại kép gồm hai đơn vị tách rời
nhau: một khu của người Nhật và một khu của người
Hoa. Mỗi khu được quản lý bởi một trưởng khu theo luật
quán ước riêng. Cư dân ở đây rất hỗn tạp, điều này giải
thích hiện tượng lai tạp ngôn ngữ. Francisco de Pina
nghĩ rằng nơi này không thể là nơi học tiếng Việt được”.
Lập luận Pina chuyển lên ở hẳn Thanh Chiêm vào
năm 1619 là có cơ sở bởi theo lời tường trình của
giáo sĩ Cristoforo Borri thì nhờ vào những hiểu biết
về thiên văn và toán học mà Pina đã tính toán chính
xác là có nguyệt thực diễn ra tại Thanh Chiêm vào lúc
11 giờ đêm (23h) mồng 9.12.1620, điều này làm cho
thế tử Kỳ rất kính trọng Pina. Qua đấy, Pina đã thiết
lập mối quan hệ hết sức thân thiết với quan trấn thủ
dinh trấn Thanh Chiêm. Tuy không thể thuyết phục
thế tử Kỳ chịu làm lễ thánh tẩy, nhưng ông đã làm
59Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
vị thế tử này có cảm tình với đạo Công giáo và các
Kitô hữu. Trong bức thư viết dở vào đầu năm 1623,
Pina có báo cáo cho Cha bề trên Rodriguez: “Năm vừa
qua, con đã viết để báo cáo với đức cha, thưa cha kính
mến, rằng con đã mua hai cái nhà của mẹ Jeanne ở Kẻ
Chàm. Mỗi nhà có ba gian, một nhà làm nơi ở, nhà kia
làm tiểu giáo đường”. Pina đã mua hai căn nhà đó vào
năm 1619, ta có thể khẳng định điều này qua câu viết
của Cristoforo Borri: “Năm 1619, một đại tăng, kẻ thù
lớn của lòng tin thánh thiện của chúng ta thuyết phục
nhà vua lưu đầy các cố đạo và phá hủy nhà thờ nhưng
nhà thờ vẫn sừng sững ở Kẻ Chàm với tên gọi “nhà của
mẹ Jeanna”.
Tại hai ngôi nhà này, Pina đã tuyển chọn một số
thanh niên Công giáo để phụ lễ, đào tạo họ thành
người thông dịch và chắc chắn những thanh niên này
đã cộng tác với ông trong vấn đề nghiên cứu và sáng
tạo chữ Quốc ngữ. Về sự cộng tác của người Việt Nam,
Roland Jacques cho biết: “Trong công việc của mình,
linh mục Pina nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một
văn nhân Việt Nam trẻ tuổi, có tên rửa tội là Phêrô, kiến
thức uyên bác về chữ Hán của người trẻ tuổi này hẳn là
rất hữu ích trong công việc của Pina”. Tại Thanh Chiêm,
Pina cùng với Phêrô, một thanh niên địa phương, đã
lần đầu tiên dịch Kinh Thánh sang chữ Quốc ngữ, sự
kiện này được biết qua một bản phúc trình chính thức
của Francisco Eugenio, tu sĩ Dòng Tên, người Ý ở Ma
Cao: “Người ấy (một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền
giáo) có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên
lanh lợi và thông minh nhất trong vùng Kẻ Chàm, anh
này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ
vô cùng Anh có tên thánh rửa tội là Phêrô, nhờ có tài
hay chữ nên giúp linh mục Pina rất nhiều trong việc dịch
kinh “Pater noster”, “Ave Maria”, “Credo” và Mười Điều
Răn ra tiếng địa phương, các kinh mà Kitô hữu đã thuộc
lòng. Linh mục Pina cũng viết ra các điều phải tin các
mầu nhiệm về Ba Ngôi, về Chúa nhập thể làm người, về
chuộc tội, cũng như sự cần thiết của đức tin và các bí
tích để được tham dự vào ơn tích của Chúa Kitô, Chúa
chúng ta. Các Kitô hữu chép lại tất cả những điều ấy, và
đã bắt đầu lần hạt mân côi y như tại xứ chúng ta”.
Pina cũng có ý định học chữ Nho và chữ Nôm
(nhưng chưa thực hiện được) với một giáo viên bản
địa tầm cỡ như thầy giảng Augusto, người thông
ngôn của cha Buzomi hiện đang ở Pulo Cambi (Quy
Nhơn) khi viết: “Nếu con cũng có tiền trả công cho thầy
dạy con học ngôn ngữ và văn chương, thì ngày nay
con đã là người thợ đầy đủ phẩm chất. Chỉ vì chính lý
do này, con không biết văn chương. Và đó là chỗ trống
đáng tiếc. Về ngôn ngữ, con đã tự mày mò học hỏi với nỗ
lực của chính mình”.
Nhờ quan hệ tốt với thế tử Kỳ ở dinh trấn Thanh
Chiêm, nên Pina đã lập một trú sở mới ở đây vào
khoảng cuối năm 1624, đầu năm 1625 và đến tháng 5
năm 1625, Pina chính thức trở thành Cha bề trên quản
nhiệm trú sở truyền giáo Thanh Chiêm (Residentia
Dinh Ciam), trú sở quan trọng nhất tại Đàng Trong vì
nó ở ngay cạnh dinh trấn Quảng Nam, triều đình thứ
hai của xứ này do thế tử Nguyễn Phúc Kỳ đứng đầu.
Không chỉ có hoạt động nghiên cứu và sáng tạo chữ
Quốc ngữ, tại trú sở Thanh Chiêm, Pina vừa là thầy
dạy tiếng Latinh cho các thầy giảng người Việt vừa là
giáo sư Việt ngữ cho hai giáo sĩ dưới quyền mới đến
hồi cuối năm 1624 là Antonio de Fontes và Alexandre
de Rhodes, người mà sau này được thực dân Pháp tôn
vinh, một cách có dụng ý, như là ông tổ của chữ Quốc
ngữ. Nói không ngoa, trú sở Thanh Chiêm là Học viện
Việt ngữ học đầu tiên trên thế giới, mà Pina có tư cách
là vị giám đốc khai lập và Alexandre de Rhodes là vị
giám đốc kế nhiệm.
Đối với công việc nghiên cứu tiếng Việt, Pina cho
biết: “Về phần con, con đã soạn xong một tiểu luận về
chính tả và các thanh điệu của ngôn ngữ này, và con
đang lao vào ngữ pháp. Tuy nhiên, dù con đã tập hợp
các truyện thuộc nhiều loại khác nhau để cung cấp các
trích dẫn của tác giả nhằm củng cố ngữ nghĩa của các
từ và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến bây giờ con
phải nhờ ai đó đọc các từ đó cho con. Con phiên âm
theo chữ Bồ Đào Nha sao cho người của chúng ta có
thể đọc và học các từ đó thuộc lòng, như học Cicéron
và Virgile vậy. Vả lại con đã có ba tập, tập hợp các văn
bản có phân tích trong số các văn bản hay nhất ở vương
quốc này”. Như vậy, vào buổi bình minh của chữ Quốc
ngữ, việc La ngữ âm hóa tiếng Việt phải gọi là Bồ Đào
Nha ngữ âm hóa tiếng Việt mới đúng.
Theo Roland Jacques, cuốn ngữ pháp và ba tập,
tập hợp các văn bản có phân tích trong số các văn
bản hay nhất ở xứ Đàng Trong của Pina đến nay vẫn
chưa được tìm thấy, hi vọng một ngày nào đó, hai tài
liệu quý hơn vàng này sẽ được phát hiện để chúng ta
có thể biết rõ hơn về chữ Quốc ngữ vào cái buổi bình
minh của nó và qua đó công lao của Pina có thể được
nhìn nhận đầy đủ và đúng đắn hơn.
Xin nói thêm, mặc dù đã cố gắng chứng minh tiểu
luận Nhập môn tiếng Đàng Ngoài là của Pina, nhưng
60 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
vì tài liệu này không có người ký tên ở dưới, thế nên
cho đến nay Roland Jacques vẫn bị linh mục Hồng
Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên hoài nghi về tính chính xác
của nó (xem Công trình nghiên cứu tiếng Việt của một
người Thụy Sĩ ở Kẻ Chợ Đàng Ngoài, Onofre Borgès 1614
- 1664; Góp ý với Roland Jacques về công trình nghiên
cứu tiếng Việt của mấy người Bồ tiên phong cho tới
1650, in tại Paris, năm 1996).
Tác giả Hồng Nhuệ cho rằng chính giáo sĩ Onofre
Borgès (còn được chép với tên Onófrio hay Onuhpre)
mới là tác giả của cuốn Nhập môn tiếng Đàng Ngoài
chứ không phải Pina. Nhưng trong luận văn của
mình, Roland Jacques đã chứng minh Onofre Borgès
không phải là tác giả của tác phẩm Nhập môn tiếng
Đàng Ngoài: “Onofre Borgès, là tên mang âm sắc Bồ
Đào Nha, nhưng dưới cái tên này ẩn giấu tên nguồn
gốc hơi khác, có thể là Honufer (Onuphrius) Bỹrgin
Ông sinh ở Lucerne vào năm 1614, năm 1630 ông vào
Dòng Tên miền thượng Đức. Có thể là, ông đã giảng dạy
trong các lớp tiểu chủng viện Innsbruck của Dòng Tên ở
Tyrol. Đi sang phương Đông năm 1638, đã kết thúc việc
nghiên cứu của mình ở Học viện Ma Cao. Rồi ông dạy
ngữ pháp có thể là trong ba năm. Tiếp đó, ông sang làm
việc ở Tonkin (Đàng Ngoài) từ 1645; bị trục xuất năm
1663, trên một con tàu của Hà Lan. Ông chết khi đến
Jakarta. Trong tài liệu lưu trữ của Dòng Tên, có bức thư
ngày 30.7.1654 cũng như 3 báo cáo thường niên về giáo
đoàn ở Tonkin: năm 1650, 1660 và 1661. Ông đã cộng
tác chuẩn bị một vài báo cáo khác. Các hoạt động ngôn
ngữ của ông không được ghi chép rõ ràng. Rõ nhất, là
việc ông viết vài văn bản tiếng Việt và chữ Nôm. Có thể,
là cùng một nguồn cảm hứng như các văn bản được
biết rõ là của Jésuite Majorica. Những năm cuối cùng
của ông, từ 1658 thật là vất vả. Phần lớn các nhà truyền
giáo bị trục xuất. Borgès đã được phép của chúa Trịnh
ở lại đất nước với một đồng sự duy nhất mới bước vào
nghề Joseph Tissanier để đảm trách việc thờ phụng của
toàn bộ các cộng đồng công giáo Thăng Long và Nghệ
An. Ông kiệt sức vì công việc. Toàn bộ công trình ngôn
ngữ vậy phải làm trước năm 1658. Rất có thể Tissianier
đã mang đến một bản từ điển của Rhodes vừa mới in,
nên nếu Borgès tiếp tục công việc về ngôn ngữ cũng
là thừa”. Về vấn đề ai là tác giả của cuốn Nhập môn
tiếng Đàng Ngoài, có lẽ Roland Jacques chính xác hơn
Hồng Nhuệ.
Cuốn tiểu luận của Pina về chính tả và các thanh
điệu tiếng Việt, theo như Roland Jacques, được mang
tên Manuductio ad Linguam Tunkinensem (Nhập môn
tiếng Đàng Ngoài). Đây là một tiểu luận bằng La ngữ
và Quốc ngữ dài 22 trang chép tay, có bố cục rõ ràng,
gồm ba chương: Về các thanh điệu; Về các con chữ và
bảng chữ cái; và Về các danh từ. Tài liệu được bổ sung
thêm các phần Đối thoại, Quán ngữ, Lăng mạ Cũng
theo Roland Jacques, thì đây rõ là một tác phẩm đang
viết dở dang: “Toàn bộ gây cho ta ấn tượng mạnh là
công việc còn bỏ dở. Dường như tác giả lúc đầu muốn
soạn một tác phẩm đầy đủ, nhưng cuối cùng do thiếu
thời gian phải thu hẹp việc triển khai và kết thúc bằng
cách ghi lung tung trên giấy các nhận xét khác nhau”.
Trong tác phẩm này, phương pháp ký âm tiếng Việt
của Pina còn siêu hơn cả cách phiên âm của các giáo
sĩ Gaspar d'Amaral, António Barbosa và Alexandre de
Rhodes về sau, bởi nó rất giống với chữ Quốc ngữ bây
giờ một cách đáng ngạc nhiên và đáng khâm phục
(nếu so với cuốn Từ điển Việt - Bồ - La mà Alexandre de
Rhodes cho xuất bản vào năm 1651 thì phương pháp
ký âm của Pina có phần tân tiến hơn):
Kẻ có tài thì haọc → Kẻ có tài thì học.
Thàng nào lành thì dĕạy → Thằng nào lành thì dạy.
Đi đàng kia làm chi → Đi đằng kia làm chi.
Cha lo viẹc bay giờ → Cha lo việc bây giờ.
Hôm qua tôi mạc chép thư nói chảng được → Hôm
qua tôi mắc chép thư nói chẳng được.
Francisco de Pina không may qua đời trong một
tai nạn lật thuyền. Vào cuối năm 1625, có lẽ vì lý do
nào đó, mà tàu buôn Bồ Đào Nha ở Ma Cao không
đến Hội An như mọi năm, chỉ có tàu buôn từ Cao
Miên trở về, bỏ neo ở ngoài khơi Cửa Đại và nhắn cho
các giáo sĩ ở Hội An biết tin để ra tàu nhận hàng tiếp
tế của tòa Giám mục Ma Cao. Pina được cử ra tàu để
nhận hàng và đi trên một chiếc thuyền nhỏ, khi quay
vào bờ, chẳng may bị một cơn gió mạnh làm lật úp
thuyền, Pina vì vướng trong chiếc áo chùng dài nên
bị chết đuối giữa biển, đó là ngày 16.12.1625. Có thể
di hài Pina được an táng tại trú sở Thanh Chiêm, nay là
nhà thờ Phước Kiều. Sau đó, Vương quốc Bồ Đào Nha
đã tiến hành lễ quốc tang cho ông. Roland Jacques
cho rằng sau khi Pina mất đi, thì giáo sĩ Alexandre de
Rhodes đã mang công trình của thầy mình ra Đàng
Ngoài vào năm 1627, rồi trao cho giáo sĩ Gaspar
d'Amaral. Về sau, tài liệu này rơi vào tay Onofre
Borgès. Có lẽ, tiểu luận này được Borgès hiệu chỉnh
đôi chút và đặt tên cho nó là Manuductio ad Linguam
Tunkinensem (Nhập môn tiếng Đàng Ngoài).
61Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Sau Pina, các giáo sĩ Gaspar d'Amaral, António
Barbosa, Girolarmo Majorica và Alexandre de Rhodes
tiếp tục công việc nghiên cứu và hoàn thiện chữ
Quốc ngữ. Năm 1627, giáo sĩ Alexandre de Rhodes
chuyển ra một trú sở truyền giáo tại Cửa Bạng (nay là
Lạch Bạng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) và mang
theo tất cả công trình dở dang của Pina rồi trao lại
cho Gaspar d'Amaral và António Barbosa. Nhờ thế,
Gaspar d'Amaral đã hoàn thiện cuốn Từ điển Việt - Bồ
và António Barbosa soạn xong cuốn Từ điển Bồ - Việt
vào khoảng năm 1635 - 1640.
Giáo sĩ Gaspar d'Amaral sinh năm 1592 tại Bồ Đào
Nha, gia nhập Dòng Tên năm 1608. Ông đã làm giáo
sư La văn, triết học, thần học tại các chủng viện ở Bồ
Đào Nha. Năm 1923, ông rời Bồ Đào Nha đi Áo Môn
hoạt động truyền giáo và đến Đàng Ngoài vào tháng
10 năm 1629. Sau 7 năm ở Đàng Ngoài, tức vào năm
1638, ông được gọi về Áo Môn giữ chức Viện trưởng
Học viện Madre de Pina Deus. Ba năm sau, ông được
cử làm phó Giám tỉnh Dòng Tên Nhật Bản (gồm các
nước: Nhật, Xiêm, Việt Nam, Miên, Lào, đất Áo Môn và
hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông lại
đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài truyền giáo, nhưng
tàu bị đắm ở gần đảo Hải Nam, ông chết đuối ngày
23.12.1645.
Trong thời gian ở Đàng Ngoài, hai tài liệu viết tay
quý giá có liên quan đến chữ Quốc ngữ mà Gaspar
d'Amaral để lại là bức thư bằng Bồ ngữ viết tại Kẻ Chợ
(Thăng Long) đề ngày 31.12.1632, nhan đề Annua
do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André
Palmeiro da Compa de Jesu, Visitador das Provincias de
Japan e China (Báo cáo thường niên về nước Annam
năm 1632, gởi cha Dòng Tên André Palmeiro, giám sát
các tỉnh ở Nhật và Trung Hoa), tài liệu này hiện lưu
trữ tại Thư khố Dòng Tên ở La Mã. Và tài liệu thứ hai
là bức thư cũng bằng Bồ ngữ viết tại Kẻ Chợ (Thăng
Long) đề ngày 25.3.1637, với nhan đề Relaçam dos
catequistas da Christamđae de Tunkine seu modo
proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão
de China (Tường trình về các thầy giảng của Giáo
đoàn Đàng Ngoài về các hoạt động của họ, gửi cho
cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa),
tài liệu này hiện giữ tại Thư khố Viện Hàn lâm Lịch sử
Hoàng gia