Khai thác yếu tố ngoài văn bản trong dạy – học Văn học dân gian ở trường đại học

Tóm tắt Qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy chúng tôi thấy tự học, tự nghiên cứu là một trong những cách học tốt nhất. Cách học này giúp người học nâng cao trình độ kiến thức, nhanh chóng chiếm lĩnh vấn đề cần tìm hiểu. Mỗi ngành học, môn học có thể áp dụng cách tự học khác nhau. Ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến vấn đề cách tự học, tự nghiên cứu trong bộ môn Văn học dân gian ở trường đại học từ phương diện khai thác các yếu tố ngoài văn bản của bộ môn này trong giảng dạy ở trường đại học.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khai thác yếu tố ngoài văn bản trong dạy – học Văn học dân gian ở trường đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015 60 Khai thác yếu tố ngoài văn bản trong dạy – học Văn học dân gian ở trường đại học Exploiting elements outside the text of teaching and learning Folklore at university ThS. Mai Thị Huệ Trường Đại học Đồng Nai M.A. Mai Thi Hue The University of Dong Nai Tóm tắt Qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy chúng tôi thấy tự học, tự nghiên cứu là một trong những cách học tốt nhất. Cách học này giúp người học nâng cao trình độ kiến thức, nhanh chóng chiếm lĩnh vấn đề cần tìm hiểu. Mỗi ngành học, môn học có thể áp dụng cách tự học khác nhau. Ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến vấn đề cách tự học, tự nghiên cứu trong bộ môn Văn học dân gian ở trường đại học từ phương diện khai thác các yếu tố ngoài văn bản của bộ môn này trong giảng dạy ở trường đại học. Từ khóa: kinh nghiệm, tự học, tự nghiên cứu, văn học dân gian Việt Nam Abstract Through practical teaching experience, we realize that self-study and research is one of the best ways of learning. It helps students improve their academic level, grasping the subject more quickly. For different fields and academic subjects, different methods of self – study should be used. This paper discusses self – study and research methods in the popular literature subject in colleges with regards to making use of – document element of this subject in teaching at the university. Keywords: methodology, self-study and research, Vietnamese folklore 1. Mở đầu Tự học, tự nghiên cứu là một trong những cách học tích cực, nếu không muốn nói là tích cực nhất. Tự học (Teach oneself) hiểu một cách đơn giản là tự mình tư duy, sử dụng năng lực (bao gồm tất cả các năng lực về trí tuệ, tình cảm, cơ bắp) của mình để chiếm lĩnh tri thức, biến những tri thức của nhân loại thành sở hữu riêng của mình. Cách học này quyết định một phần lớn đến việc chiếm lĩnh kiến thức của cá nhân người học nhằm giúp người học ứng dụng kiến thức đó một cách tốt hơn trong thực tiễn hoạt động dạy và học. Hai tác giả Phạm Gia Đức - Phạm Đức Quang đã viết “Cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại trong đó chủ yếu là tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị mình bằng cách thu nhận xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong của con người mình”(1). Giáo sư Văn Như Cương cũng cho rằng “Tự học là phương pháp tốt nhất để phát huy trí tuệ, để nắm vững kiến thức và linh hoạt áp dụng”(2) Văn học dân gian (VHDG) với tư cách 61 là một bộ phận cấu thành nền văn học dân tộc không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển của nền văn học viết mà còn có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời với lịch sử, văn hoá của dân tộc. Với tính chất như vậy “nền văn học nói” (để phân biệt với “nền văn học viết”) sớm được đưa vào giảng dạy trong nhà trường ở nhiều cấp học. Riêng ở Đại học, VHDG là phân môn có thời lượng đến 5 đơn vị học trình hoặc một học phần 3 tín chỉ. Đây là môn học có những đặc trưng riêng, đòi hỏi người dạy và người học cần có những phương pháp phù hợp để đạt được mục tiêu dạy – học. Một trong những cách thức đó chính là việc khai thác các yếu tố ngoài văn bản trong quá trình dạy – học. Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở Đại học Đồng Nai, bài viết của chúng tôi tập trung nghiên cứu việc vận dụng những yếu tố ngoài văn bản trong dạy – học môn Văn học dân gian trong trường Đại học, giúp phục vụ tốt hơn công tác này trong quá trình giảng. 2. Nội dung 2.1. Thực tế giảng dạy VHDG hiện nay trong Trường Đại học Đồng Nai Như đã nói ở trên, VHDG có những đặc trưng riêng, bản thân tác phẩm VHDG cần được nhìn nhận như một quá trình; trong mối quan hệ với các yếu tố văn hoá lịch sử và đặc điểm diễn xướng của từng thể loại. Đặc trưng này tạo nên những giá trị đặc biệt của tác phẩm VHDG đồng thời cũng gây không ít khó khăn trong quá trình tiếp nhận nó. Thực tế giảng dạy phân môn VHDG Việt Nam ở Trường Đại học Đồng Nai, chúng tôi nhận thấy việc dạy – học VHDG chưa đạt được kết quả như mong đợi có nhiều nguyên nhân, xuất phát từ nhiều phía (trong nội dung bài viết này chỉ xin nói về người học). Thứ nhất, người học thiếu hẳn một nền tảng tri thức liên ngành để tiếp cận và cảm thụ đầy đủ các giá trị văn hoá, thẫm mỹ của tác phẩm. Mỗi tác phẩm VHDG là một tác phẩm văn hoá, ẩn chứa nhiều mã văn hoá, lịch sử và các biểu tượng, kiến thức liên ngành. Xin đơn cử một ví dụ: Việc tiếp cận truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh rất cần đến nền tảng tri thức liên ngành và kiến thức thể loại (trong tự sự dân gian). Nếu kiến thức thể loại cho phép sinh viên giải quyết vấn đề thể loại của văn bản (truyền thuyết hay thần thoại) thì kiến thức liên ngành như lịch sử, khí tượng thuỷ văn (của sông Hồng), dân tộc học sẽ giúp các em có được cái nhìn toàn vẹn về các giá trị văn hoá của tác phẩm này. Tiếp cận theo hướng này, sinh viên sẽ thấy, truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh hàm chứa những tri thức dân tộc học, đó là chế độ quần hôn đang dần bị thay bằng chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Cùng với chế độ hôn nhân ấy là tục thách cưới, tục con gái lấy chồng cư trú bên nhà chồng, tục lại mặt sau đám cưới Và đặc biệt truyện còn phản ánh 2 tín ngưỡng quan trọng bậc nhất của người Việt là là tín ngưỡng thờ tự nhiên (tục thờ thần núi) và thờ cúng con người (tục thờ các vị anh hùng có công lao lớn với cộng đồng, thờ các vị tổ tiên khai sáng đất nước). Như vậy, việc xác định vai trò và vị trí của truyện này trong hệ thống truyền thuyết người Việt cũng trở nên dễ dàng hơn (truyện phản ánh một thời kỳ huy hoàng, quan trọng bậc nhất trong lịch sử dân tộc: Thời kì Hùng Vương dựng nước). Và tất nhiên, những băn khoăn về tính đa chủ đề của truyện cũng được giải quyết. Sinh viên hoàn toàn có thể tự giải thích vì sao về bản chất truyện là thần thoại nhưng sách giáo khoa trong chương trình phổ thông lại gọi là truyền thuyết và muốn dạy theo chủ đề 62 này (chủ đề ngợi ca lao động, khắc phục những trở ngại của thiên nhiên (lũ lụt) của người Việt cổ để tổ chức đời sống, tạo dựng nền móng cho một nền văn minh lúa nước sau này). Việc thiếu hẳn nền tảng tri thức liên ngành dẫn đến có rất nhiều câu hỏi (hoặc vấn đề) chúng tôi đặt ra, sinh viên còn lúng túng hay trả lời “đúng mà chưa trúng”, nhất là những câu hỏi mang tính “hàn lâm”. Chẳng hạn: “Qua ví dụ cụ thể, anh (chị) hãy nêu điểm giao thoa giữa các thể loại VHDG” thì sinh viên trả lời loanh quanh, hoặc sự cảm thụ tác phẩm VHDG chưa cao, có khi ngây ngô nếu không muốn nói là sai lệch (ví như yêu cầu bình giảng bài ca dao: “Rủ nhau xuống bể mò cua” sinh viên nhầm “bể” là dụng cụ đựng nước mưa; quả mơ nhầm với “mơ” ngâm đường ở Hà Nội rồi cứ thế mà thắc mắc, mà “tán” (!). Hay khi người dạy yêu cầu kể, đọc một số tác phẩm VHDG như truyện thần thoại, truyện cười, truyện ngụ ngôn, sử thi, truyện thơ, thành ngữ, có rất nhiều sinh viên không kể và đọc được, đặc biệt là những thể loại, tác phẩm VHDG của dân tộc thiểu số (như truyện thơ hay sử thi). Vì sao lại có cách hiểu, cách cảm trong tình trạng trên? Phải chăng do chưa thực sự tạo cho mình một thói quen tự học, tự nghiên cứu tìm tòi đọc tài liệu dẫn đến vốn kiến thức về VHDG quá ít? Thứ hai, tính thụ động trong học tập của sinh viên là một trở ngại vô cùng lớn trong việc tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm VHDG. Mặc dù trong quá trình giảng dạy, ngay từ đầu phân môn, giảng viên đã cung cấp cho sinh viên Đề cương chi tiết học phần theo từng vấn đề, giới thiệu tài liệu bắt buộc, tài liệu tham khảo liên quan, để định hướng cho sinh viên nghiên cứu. Tuy nhiên, tính chủ động của sinh viên trong việc tìm kiếm tài liệu để đọc và khả năng tương tác với giáo viên là chưa cao. Khả năng làm việc theo nhóm để giải quyết nhiệm vụ học tập của các em cũng hạn chế. Về điều này, tác giả Trần Minh Hường, cũng cho rằng: “ trong thực tế hiện nay, đa số sinh viên chưa ý thức một cách đầy đủ về vấn đề tự học. Họ đang lúng túng trong việc tự chiếm lĩnh tri thức, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tính thụ động. Rất nhiều giáo viên ở các trường ĐH, CĐ đã than phiền về việc ứng dụng phương pháp dạy học mới chưa thực sự hiệu quả. Một trong những nguyên nhân quan trọng của thất bại này chính là ở người học” [Trần Minh Hường (2006), “Tự học – Bí quyết thành công”, GDTĐ số tháng 7](3). Thứ ba, việc dạy – học tác phẩm VHDG hiện nay chủ yếu tiếp cận trên văn bản ngôn từ. Điều này không sai nhưng chưa hoàn toàn phù hợp với đặc trưng loại hình foklore này. Chúng ta biết rằng, tác phẩm VHDG luôn gắn với môi trường diễn xướng, tính thực hành sinh hoạt. Nói cách khác, đây chính là nơi bộc lộ tất cả các đặc điểm và giá trị của nó. Nhìn nhận, tiếp cận VHDG trong môi trường diễn xướng là đưa tác phẩm trở về đúng môi trường sản sinh và hành dụng của nó. Chẳng hạn, dạy về ca dao dân ca (đặc biệt giao duyên) và hát ru sinh viên không thể “hình dung” môi trường diễn xướng mà cần được thấy, trải nghiệm quan sát mới cảm hết được giá trị của nó. Điều này ở các trường Đại học và Cao đẳng về cơ bản là chưa thực hiện được do những hạn chế về điều kiện thời gian và cơ sở vật chất. Việc đưa sinh viên đi thực tế, điền dã phục vụ cho việc học tập học phần này là khó khả thi bởi những quy định về thời gian, cơ chế Rõ ràng, nếu chỉ tiếp cận trên bình diện ngôn từ văn bản thì không thể khai thác hết các giá trị và ý 63 nghĩa của tác phẩm. Đây cũng là hạn chế nói chung không chỉ ở trường chúng tôi mà còn ở nhiều trường khác được các đồng nghiệp chia sẻ. 2.2. Khai thác các yếu tố ngoài văn bản – một định hướng đề xuất Để cảm thụ được hết cái hay, cái đẹp của VHDG chúng ta không chỉ tìm hiểu VHDG bằng văn bản ngôn từ (dĩ nhiên văn bản ngôn từ là yếu tố cốt lõi) mà phải tìm hiểu nó trong văn hóa dân gian, trong môi trường sinh thành, tồn tại, biến đổi và phát triển của nó. Có nghĩa, chỉ khi hòa mình vào các sinh hoạt của dân gian nơi diễn xướng VHDG ta mới thấy hết được sự hồ hởi, phấn khởi, vui nhộn (lễ hội) hay sự tán thành, đau thương, không đồng tình (giao tiếp), trong từng cử chỉ, điệu bộ, thái độ, động tác, không gian, âm thanh mà ở văn bản ngôn từ VHDG không thể thấy được Khác với văn học viết, VHDG có những đặc điểm, thuộc tính (hay đặc trưng cơ bản): tính tập thể, tính truyền miệng, tính vô danh, tính biểu diễn (hoặc diễn xướng), tính dị bản, tính đa chức năng và nguyên hợp. Tính đa chức năng và tính nguyên hợp là hai mặt của một vấn đề (tính nguyên hợp sản sinh ra tính đa chức năng. Tính đa chức năng phản ánh tính đa ngành, đa lĩnh vực nghệ thuật và khoa học trong sáng tác dân gian). Về chức năng VHDG, ngoài bốn chức năng chung của văn học nói chung, VHDG còn có chức năng quan trọng chủ yếu là chức năng thực hành trong đời sống. Chính vì thế, tiếp nhận tác phẩm VHDG ngoài văn bản ngôn từ ta cần phải có môi trường tồn tại thực hành của nó. Có thể khái quát bằng sơ đồ sau và so sánh nó với văn học viết: Rõ ràng, tiếp nhận VHDG không chỉ trên văn bản ngôn từ mà tiếp nhận nó như nó tồn tại sinh thành và biến đổi. Nói cách khác, ngoài văn bản ngôn từ ta cần tìm hiểu VHDG ở các yếu tố ngoài ngôn từ và trong tính liên văn bản. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong môi trường lớp học hiện nay, để thực hiện được việc tìm hiểu yếu tố ngoài văn bản hãy còn không ít khó khăn. Dù vậy, không thể không làm. Nói như tác giả Đinh Gia Khánh: “Nghệ thuật ngữ văn, một thành tố của văn hóa dân gian chỉ có thể phát huy đầy đủ chức năng thẩm mĩ khi gắn bó với các thành tố khác”(4) hay tác giả Chu Xuân Diên: “là thành phần chủ yếu trong tổng thể sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian, văn bản văn học dân gian Việt Nam đậm dấu vết của những thành phần không phải văn học của tổng thể đó”(5). Đặc trưng của VHDG tạo ra những yếu tố ngoài văn bản ngôn từ, nếu người tìm hiểu bỏ đi những yếu tố ấy thì tác phẩm VHDG Văn học dân gian Văn học viết 64 không còn là bản thân nó nữa. 1. Nhận diện các yếu tố ngoài văn bản Hiểu một cách đơn giản, yếu tố ngoài văn bản là các yếu tố không nằm trong văn bản tác phẩm (được in ấn trong sách, giáo trình) mà có liên quan đến các giá trị, nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Những yếu tố ngoài văn bản có thể là các làn điệu dân ca, các cách thức diễn xướng, phương thức tồn tại, sự vận động trong đời sống dân gian, các chức năng sinh hoạt thực hành xã hội của VHDG. Cũng có những yếu tố được nhắc đến trong văn bản nhưng chỉ có thể cảm nhận được khi chính người tiếp cận được trải nghiệm. Chẳng hạn, trong truyền thuyết nói đến tính thiêng (ngài hiển linh, hiển thánh, hoặc ngôi đền rất thiêng, người dân thường ra đó cầu tự). Chi tiết này được mô tả khá đơn giản và rất dễ bị bỏ qua khi tiếp cận từ mặt ngôn từ. Tuy nhiên, tính thiêng lại là một đặc trưng quan trọng của truyền thuyết. Đây là cơ sở niềm tin của nhân dân đối với các vị anh hùng có công với dân với nước. Tính thiêng chỉ được cảm nhận đầy đủ khi người tiếp nhận tham dự, trải nghiệm ở môi trường diễn xướng (tham gia vào lễ, tế trong lễ hội chẳng hạn). Ngoài ra, có thể kể đến các yếu tố ngoài văn bản một cách khái quát như ở các chức năng và loại hình của tác phẩm VHDG như: - Chức năng ứng dụng thực hành: bao gồm môi trường (lễ hội, sinh hoạt, lao động, vui chơi, giải trí, giao tiếp) sinh thành, tồn tại, phát triển, biến đổi; cử chỉ, điệu bộ, thái độ; nhạc, vũ; không gian, không khí dân gian. - Loại hình nguyên hợp: VHDG không chỉ có ý thức thẩm mĩ về mặt ngôn từ mà còn là khoa học (truyện thần thoại, tục ngữ), triết học, tôn giáo, đạo đức; tính chất tổng hợp về phương thức biểu hiện (các yếu tố tự sự, trữ tình, kịch kết hợp) dẫn đến sự tổng hợp về phương pháp sáng tác; tổng hợp về phương tiện nghệ thuật (vũ, nhạc, động tác). Điều này sinh ra tính liên văn bản của VHDG. 2. Tổ chức thực hiện nhằm khai thác triệt để các yếu tố ngoài văn bản Các hình thức tổ chức rất đa dạng, có thể sử dụng một hình thức, cũng có thể kết hợp vài ba hình thức với nhau. Có thể kể đến một số hình thức sau: - Sân khấu hóa để một phần nào đó tái hiện không khí dân gian, hoàn cảnh giao tiếp. Ngoài phần thực hành được quy định trong “phần cứng” của chương trình học tín chỉ, cần thiết tổ chức thêm những giờ/ đêm sinh hoạt để diễn một trích đoạn chèo Quan âm Thị Kính hoặc Xúy Vân giả dại hay một trích đoạn tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến,Ở Trường Đại học Đồng Nai hoàn toàn có khả năng thực hiện hình thức này (giảng viên, sinh viên nghiên cứu tự tập hoặc mời chuyên gia như cô Lưu Thị Kim Cúc, nguyên giảng viên của Trường ĐN đã từng đóng vai Xúy Vân rất hay trên sân khấu Đại học Vinh) - Diễn kể về một truyện truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, chèo... Yêu cầu SV phải tập và tự thể hiện, có thể thực hiện kể bằng cách phân vai. - Thi đố, cá cược ở hình thức câu đố, đồng giao để thấy được sự vui nhộn, phấn khởi, hồ hởi, thi đua, tranh tài, hay hả hê, ủ dột - Thực hành nói diễn cảm, có vần điệu, vận dụng cách nói đệm/ nói xen ca dao, tục ngữ, vè. Chẳng hạn: cho 2 bạn cãi nhau thật hăng, đang cao trào thì bạn thứ 3 xuất hiện can ngăn: “Thôi mà, một sự nhịn là chín sự lành đấy bạn ạ”v.v - Hát hò đối đáp dân ca, hát rucác vùng miền nước ta. Đã dạy và học VHDG, 65 cả người dạy lẫn người học (nhất là người dạy) tối thiểu phải trang bị cho mình “nằm lòng” một số câu hát xoan, hò, lý, ví, dặm, ru Bắc bộ, ru Nam bộ,Trên cơ sở đó phải biết phát hiện trong SV những em ham thích, có năng khiếu để tổ chức những buổi hát này (hoặc kết hợp khi đi điền dã, du lịch,) - Giả thiết tình huống, hoàn cảnh giao tiếp để hiểu tác phẩm VHDG với những ý nghĩa khác nhau trong văn cảnh khác nhau tạo ra bởi nó là văn học ứng dụng nên ai cũng có thể vận dụng. Ví dụ: câu ca dao “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi”, chỉ khi đưa câu ca dao trên vào giả dụ hoàn cảnh giao tiếp trực tiếp ta mới thấy tình cảm của cô gái bộc lộ như thế nào với chàng trai một cách đúng mức (phải trực tiếp nhìn, nghe thái độ, nét mặt, cử chỉ, giọng nói ta mới thấy cô gái đang thổ lộ tình yêu mãnh liệt, có phần táo bạo nhưng không kém phần tế nhị dịu dàng của cô gái với chàng trai, với mong ước và sự “mách nước” cho chàng trai rút gần khoảng cách). Hoặc câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” là câu khuyên người nhưng tùy vào người ứng dụng trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau cho ra nghĩa khác nhau: khuyên mua đồ dùng, khuyên chọn người, khuyên cách sống, khuyên rèn tính cách v.v - Ứng dụng công nghệ thông tin: xem ca hát, lễ hội, diễn truyện...bằng phim ảnh, âm thanh. Điều này rất tốt và quen thuộc nhưng cần lưu ý: chỉ vận dụng chứ nhất thiết không lạm dụng. - Điền dã: Ngoài công tác điền dã quy định trong chương trình để SV làm quen việc sưu tầm, thu thập tài liệu, cần linh động tổ chức nhóm/ lớp tận dụng các lễ hội ở địa phương, các buổi giỗ tiền hiền ở dòng họ hay lễ hội đình làng để SV hiểu và tích lũy được tri thức VHDG. Điền dã là một phương pháp tối thiết của dạy - học VHDG vì qua đó người học sẽ được làm quen với công tác thu thập tài liệu, xử lí tài liệu, bảo quản tài liệu và sử dụng tài liệu hiệu quả. Hình thức học qua cách điền dã giúp người học trực tiếp tiếp xúc với văn bản trong dân gian, trực tiếp tiếp xúc với những người sáng tác lưu truyền, với không khí dân gian thực mà qua nguồn tài liệu sách vở nào cũng không thể có được. Nói như Iu.M.Xôcôlôp (1889-1941): “Cần phải coi là đã lỗi thời rồi, cái thời mà nhà nghiên cứu folklore có thể không kiêm nhà sưu tầm và nhà quan sát trực tiếp sự tồn tại của folklore trong đời sống thực tế”.(6) 3. Kết luận Trong phạm vi một bài viết, chúng tôi chưa có dịp đề cập đến toàn bộ nội dung công tác dạy - học Văn học dân gian ở trường Đại học đã được đề cập tới khá nhiều trong các giáo trình, sách chuyên khảo, mà chỉ tập trung vào một khía cạnh: khai thác các yếu tố ngoài văn bản. Nhưng ngay ở khía cạnh này, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chúng tôi cũng chưa đề cập được đầy đủ, thấu đáo những nội dung của nó. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là: tự tìm hiểu, nghiên cứu VHDG đối với người dạy, người học hay người yêu thích bộ môn này là một trong những phương pháp học hữu ích nhất. Tất nhiên, khi nghiên cứu VHDGVN chúng ta phải có phương pháp, phải dựa vào các tiêu chí cụ thể, vào đặc thù của VHDG mà nghiên cứu, tìm hiểu và khai thác các yếu tố ngoài văn bản là một trong các phương pháp đó. Với những gợi ý về các phương pháp tự học, tự nghiên cứu VHDGVN nói trên, chúng tôi hi vọng rằng điều đó sẽ ít nhiều mang lại hiệu quả tốt cho mọi người trong việc nghiên cứu, 66 dạy và học môn VHDG. Chúng tôi mong sao việc tự học, tự nghiên cứu sẽ tạo thành một thói quen - một phương pháp học tích cực và các hoạt động ngoài văn bản này sẽ khơi nguồn cảm hứng say mê, yêu thích của người dạy cũng như người học đối với môn VHDG. Chú thích 1. Phạm Gia Đức – Phạm Đức Quang (2007), Giáo trình dạy học sinh trung học cơ sở tự lực tiếp cận kiến thức toán học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. 2. phuong-phap-tot-nhat-223662.vov 3. 654&CatId=102 4. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian. Nxb Khoa học Xã hội. 5. Chu Xuân Diên (1989), Văn hóa dân gian – những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội. 6. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo Dục. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Bích Hà (2006), (Tuyển chọn và giới thiệu), Văn học dân gian Việt Nam- Tác phẩm dùng trong nhà trường, Nxb Thanh Niên. 2. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học dân gian Việt Na