Văn thư ngoại giao thời Trần hiện còn, bao gồm các bức thư, các bản tấu,
biểu, tiên, trạng. của các vua Trần gửi nhà Tống và nhà Nguyên (chủ yếu là nhà
Nguyên, chỉ có 1 văn thư gửi nhà Tống), hiện chép rải rác 4 nguồn t ài liệu, bao
gồm: 1. An Nam chí lược (ANCL)
(1)
, 2. Nguyên sử (NS)
(2)
, 3. Thiên Nam hành ký
(TNHK)
(3)
, 4. Trần Cương Trung thi tập. (TCTTT)
(4)
. Trong ANCL, tính c ả các văn
thư ở phần Biểu chương và Tiền đại thư biểu (Thư, biểu của các đời trước), có 7 văn
thư. Trong NS, ngoài 5 đoạn trích quá ngắn c ùng 1 đoạn trích thuộc văn thưnăm
Chí Nguyên thứ 15 đã có trong ANCL, tất cả có 8 văn thư (đoạn trích). TNHK có 6
văn thư. TCTTT có 5 văn thư (3 văn thư gửi Hốt Tất Liệt được gộp chung
thànhAn Nam tiến Vạn thọ tụng tịnh biểu tấu ). Qua 4 nguồn tư liệu trên ta có 26 văn
thư ngoại giao thời Trần (trong đó có văn thưchỉ là những đoạn trích).
6 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo biện văn thư ngoại giao của Trần Nhân Tông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khảo biện văn thư ngoại
giao của Trần Nhân Tông
Văn thư ngoại giao thời Trần hiện còn, bao gồm các bức thư, các bản tấu,
biểu, tiên, trạng... của các vua Trần gửi nhà Tống và nhà Nguyên (chủ yếu là nhà
Nguyên, chỉ có 1 văn thư gửi nhà Tống), hiện chép rải rác 4 nguồn tài liệu, bao
gồm: 1. An Nam chí lược (ANCL)(1), 2. Nguyên sử (NS)(2), 3. Thiên Nam hành ký
(TNHK)(3), 4. Trần Cương Trung thi tập. (TCTTT)(4). Trong ANCL, tính cả các văn
thư ở phần Biểu chương và Tiền đại thư biểu (Thư, biểu của các đời trước), có 7 văn
thư. Trong NS, ngoài 5 đoạn trích quá ngắn cùng 1 đoạn trích thuộc văn thư năm
Chí Nguyên thứ 15 đã có trong ANCL, tất cả có 8 văn thư (đoạn trích). TNHK có 6
văn thư. TCTTT có 5 văn thư (3 văn thư gửi Hốt Tất Liệt được gộp chung
thànhAn Nam tiến Vạn thọ tụng tịnh biểu tấu). Qua 4 nguồn tư liệu trên ta có 26 văn
thư ngoại giao thời Trần (trong đó có văn thư chỉ là những đoạn trích).
Trong tổng số 26 văn thư đã đề cập có văn thư ghi rõ tên tác giả (hay đúng hơn
là vị vua đại diện cho vương triều Đại Việt gửi các vua nhà Nguyên), song có văn thư
chỉ ghi một cách chung chung, như “An Nam Trần” (họ Trần nước An Nam), có văn
thư lại hoàn toàn chỉ ghi ngày tháng, không có tên tác giả, thậm chí có văn thư chỉ là
các đoạn trích, không ghi tác giả, niên đại. Vậy phải làm thế nào để tìm ra các văn
thư ngoại giao của Trần Nhân Tông trong số 26 văn thư đó? Lê Mạnh Thát trong
sáchToàn tập Trần Nhân Tông(5) đưa ra 22 văn thư của Trần Thánh Tông, gồm các
văn thư sau đây:
1 Lá thư tháng Mười một nhuận năm Chí Nguyên thứ 15
(1278)
2a Tờ biểu tháng Mười hai năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
2b Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
4 Lá thư tháng Ba năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho
Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh
5 Lá thư tháng Mười năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho
Thoát Hoan
6 Thư tháng Mười năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho
Thoát Hoan
7 Lá thư tháng Ba năm Chí Nguyên 23 (1286)
8 Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 25 (1288)
9 Tờ biểu tháng Tư năm Chí Nguyên thứ 26 (1289)(6)
10 Tờ trạng tháng Ba năm Chí Nguyên 26 (1289)
11 Thư tháng Ba năm Chí Nguyên 26 (1289)
12 Thư tháng Ba năm Chí Nguyên 26 (1289)
13 Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 29 (1292)
14 Thư ngày 13 tháng Giêng năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
15 Thư ngày 21 tháng Hai năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
16 Thư ngày 25 tháng Hai năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
17 Thư ngày 1 tháng Ba năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
18 Nguyên nước An Nam dâng bài ca Vạn thọ cùng biểu và tấu
[năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)]
19 Tờ biểu ngày Tư tháng Ba năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
20 Tờ tâu ngày Tư tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
21 Tờ biểu năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295)
22 Tờ biểu xin Đại Tạng kinh [năm Nguyên Trinh thứ nhất
(1295)]
Về niên đại 22 văn thư trong Toàn tập Trần Nhân Tông, văn thư đầu tiên viết
vào năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), lá thư thứ 21 (từ đây số thứ tự các văn thư giữ
nguyên như trong Toàn tập Trần Nhân Tông) là năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295).
Văn thư cuối cùng không có tác giả, niên hiệu. Về nội dung, đây là tờ biểu của vua
Trần gửi nhà Nguyên để xin bộ kinh Đại tạng. Theo Đại Việt sử kí toàn
thư (ĐVSKTT), năm Hưng Long thứ 3 (1295), tức năm Nguyên Trinh thứ nhất nhà
Nguyên, “Mùa xuân tháng Hai, ngày mồng 1, sứ Nguyên là Tiêu Thái Đăng sang, vua
sai Nội viên lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo cùng đi với, thu được bộ kinh Đại
tạng đem về, để ở phủ Thiên Trường, in bản để lưu hành”. Trong văn thư này cũng có
ghi: “Thần ở cõi viêm bang hoang vu, sớm đã quy y Phật pháp, chuộng kinh lá bối
truyền tự Trung Hoa. Thời Đường - Tống trước đây, chở kinh sang bằng đàn ngựa
trắng. Ngày đại binh kéo đến, lửa thiêu hóa đống tro tàn”. “Ngày đại binh kéo đến”
chỉ việc quân Nguyên sang xâm lược nước ta, kết hợp với ghi chép
trong ĐVSKTT đây có lẽ chỉ đợt xâm lược lần thứ ba vào năm 1288. Từ những thông
tin trên cho phép đoán định đây chính là văn thư của vua Trần gửi vua Thành Tông
nhà Nguyên vào năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295), cùng năm, cùng một tác giả với
tờ biểu mừng Thành Tông mới lên ngôi. Như vậy văn thư này cũng viết năm 1295.
Từ năm 1278 đến năm 1293 là thời gian vua Trần Nhân Tông đang tại vị. Như
vậy, rõ ràng tác giả Toàn tập Trần Nhân Tông đã coi đây là một tiêu chí quan trọng
để xác định tác giả của 22 văn thư nói trên. Cách xác định như vậy có đúng không?
Để làm sáng tỏ vấn đề này, trước hết ta hãy thử xem tên tác giả ghi trong 22 văn đó.
Các văn thư thứ 7, 8, 9, 10, 11, 12 đều ghi rõ tác giả là Trần Nhật Huyên.
Chẳng hạn văn thư thứ 8 (Tờ biểu năm Chí Nguyên 25 - 1288) có câu: “Vi thần, thế
tử nước An Nam Trần Nhật Huyên... dâng lời lên Hoàng đế bệ hạ”. Văn thư thứ 9
(Tờ biểu tháng Tư năm Chí Nguyên thứ 25 - 1288) ghi rõ: “Thế tử nước An Nam là
vi thần Trần Nhật Huyên... dâng lên Hoàng đế bệ hạ”, v.v Trong khi đó các văn
thư 19, 20 lại ghi tác giả là Trần Nhật Tôn (cả thảy 17 lần xưng là Nhật Tôn).
Chẳng hạn văn thư thứ 20 - Tờ tâu ngày 4 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293) -
ghi: “Bề tôi nước An Nam là Trần Nhật Tôn kính cẩn dâng lời”). Rõ ràng danh
nghĩa tác giả của các văn thư này đã khác nhau, không phải một người. Vậy trong
quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên, phải chăng Trần Nhân Tông đã đồng thời dùng
hai tên khác nhau? Hay nói cách khác, “Nhật Huyên và Nhật Tôn chính là những tên
gọi khác nhau của vua Trần Nhân Tông” như tác giả Toàn tập Trần Nhân Tông đã
khẳng định. Để làm sáng tỏ vấn đề, ta hãy khảo cứu xem Trần Nhật Huyên và Trần
Nhật Tôn có phải là tên gọi của Trần Nhân Tông hay không.
Về tên của các vua nhà Trần, ĐVSKTT ghi rõ: Trần Thái Tông tên là Cảnh,
Thánh Tông tên là Hoảng, Nhân Tông tên là Khâm, Anh Tông tên là
Thuyên (Trong các tên đều có bộ “hỏa” hoặc bộ “nhật”). Như vậy, theo chính sử
nước ta, các vua Trần không ai có tên là Trần Nhật Huyên hay Trần Nhật Tôn. Rõ
ràng trong quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên, các vua nhà Trần đã không dùng tên
thật của mình.
Khảo sát NS, đầu phần An Nam truyện ghi: “Tháng Hai năm Mậu ngọ, niên
hiệu Nguyên Hiến Tông thứ 8 (1258), Nhật Cảnh truyền quốc cho con trưởng là
Quang Bính, đổi niên hiệu là Thiệu Long” (Bát niên Mậu ngọ nhị nguyệt, Nhật
Cảnh truyền quốc vu trưởng tử Quang Bính, cải nguyên Thiệu Long). Nhật Cảnh
tức Trần Thái Tông, Thiệu Long (1258-1272) là niên hiệu của Trần Thánh Tông.
Vậy phải chăng Quang Bính là Thánh Tông?
Thực ra ở điểm này NS có sự nhầm lẫn. Sở dĩ ta có thể biết chắc chắn như vậy
vì ngay trong phần An Nam truyện, ở đoạn khác ghi rõ: “Năm Chí Nguyên thứ 14
(1277), Quang Bính chết, người trong nước lập Thế tử Nhật Huyên lên thay” ([Chí
Nguyên] thập tứ niên, Quang Bính tốt, quốc nhân lập kỳ thế tử Nhật Huyên). Năm
1277 là năm Thái Tông mất. Vậy Quang Bính chính là Trần Thái Tông. Một đoạn
khác trong NS lại ghi: “Năm Chí Nguyên thứ 27 (1290), Nhật Huyên chết, con là
Nhật Tôn sai sứ tới cống” ([Chí Nguyên] nhị thập thất niên, Nhật Huyên tốt, tử Nhật
Tôn khiển sứ lai cống). Trần Thánh Tông mất năm 1290. Vậy Nhật Huyên chính là
Thánh Tông. Từ các thông tin trên đây, ta có được kết quả sau: Quang Bính sinh ra
Nhật Huyên, Nhật Huyên sinh ra Nhật Tôn. Trong văn thư thứ 20, tác giả Nhật Tôn
cho biết “ông nội của thần là Quang Bính”. Từ đó suy ra Nhật Tôn chính là Trần
Nhân Tông. Do vậy, khẳng định “Quang Bính chính là vua Trần Thánh Tông” như
tác giảToàn tập Trần Nhân Tông là không chuẩn xác.
Tuy nhiên, chúng ta đều biết rằng NS là một bộ sử có nhiều thông tin sai
lầm. Đối với các văn thư ngoại giao thời Trần, muốn xác định tác giả của chúng,
ngoài việc dựa vào các bộ sử, cần khảo sát thêm trên chính các văn thư đó. Trong
tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), tác giả ghi rõ: “Suốt cuộc đời, cha thần
được nhận ân đức cao dày. Năm Chí Nguyên thứ 14 (1277), cha thần chẳng may
qua đời”. Năm 1277, Trần Thái Tông mất. Từ đó có thể biết tác giả văn thư này là
Trần Thánh Tông. Do Trần Thái Tông mới mất nên trong các văn thư viết vào các
năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), 20 (1284) tác giả nhiều lần dùng từ “cô thần”,
“cô tử” Trong lá thư viết tháng Mười một năm Chí Nguyên 20 (1284) gửi Bình
chương chính sự A Lí Hải Nha, tác giả viết: “Còn về lời dạy bảo kẻ côi cút này tự
mình đến nơi cửa khuyết để vâng lời giáo huấn, như lúc cha già còn sống thiên
triều đã xót thương mà cho được ngoài quy định. Nay cha già đã mất, kẻ côi cút
này đang chịu tang, nhiễm bệnh đến nay con chưa hồi phục”. Các chi tiết đã nêu
đều chứng tỏ tác giả các văn thư trên là Trần Thánh Tông.
Trong tờ biểu viết tháng Tư năm Chí Nguyên thứ 26 (1289), tác giả Trần Nhật
Huyên viết: “Trước đây quốc thúc là Di Áitrốn mất ở biên giới khiến thần bị vu là tự
ý giết hại. Tiếp đến, đứa em giữa là Ích Tắc tự đến đại quân để xin hàng”. Trần Di
Ái là con thứ tư của Trần Thừa, em ruột Trần Thái Tông. Nhật Huyên gọi Trần Di Ái
là chú. Từ đó suy ra Nhật Huyên chính là Trần Thánh Tông. Trần Thái Tông sinh ra
Trần Hoảng (Trần Thánh Tông), Trần Quang Khải, Trần Nhật Vĩnh, Trần Ích Tắc,
Trần Nhật Duật. Chính vì vậy Thánh Tông mới gọi “Ả Trần” là “em giữa”. Khảo sát
nội dung các văn thư cho thấy kết luận “Nhật Huyên và Nhật Tôn chính là những tên
gọi khác nhau của vua Trần Nhân Tông” như tác giả Toàn tập Trần Nhân Tôngđã đưa
ra là không chuẩn xác.