Tóm tắt: Ở các tổ hợp động từ + động từ trong
tiếng Việt từ lâu đã diễn ra một quá trình ngữ pháp hoá
và chúng ta vẫn sử dụng các động từ gốc cùng với các
tổ hợp động từ được tạo ra bởi sự kết hợp của động từ
gốc đó với một động từ khác. Nói cách khác, trong hệ
thống từ vựng tiếng Việt hiện đại vẫn song song tồn tại
cả hai dạng thức động từ gốc và các tổ hợp động từ
chứa động từ gốc nhưng đã được ngữ pháp hoá như
đánh và đánh rơi, đánh lừa, đánh đổi; hoặc làm và làm
rơi, làm vỡ;.
Bài viết này sẽ so sánh và xem xét sự thay đổi
nghĩa ngữ pháp, mối quan hệ nghĩa ngữ pháp giữa các
động từ gốc (khi được dùng độc lập) và khi là một
thành tố đã được ngữ pháp hóa của một tổ hợp hai
động từ qua nghiên cứu trường hợp đánh và làm.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát quá trình ngữ pháp hóa diễn ra ở một số tổ hợp động từ cú nghĩa (+chủ ý) và (-chủ ý), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
455
KHẢO SÁT QUÁ TRÌNH NGỮ PHÁP HÓA
DIỄN RA Ở MỘT SỐ TỔ HỢP ĐỘNG TỪ CÚ NGHĨA
(+CHỦ Ý) VÀ (-CHỦ Ý)
Nguyn Mai Lan
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t
t: Ở các tổ hợp động từ + động từ trong
tiếng Việt từ lâu đã diễn ra một quá trình ngữ pháp hoá
và chúng ta vẫn sử dụng các động từ gốc cùng với các
tổ hợp động từ được tạo ra bởi sự kết hợp của động từ
gốc đó với một động từ khác. Nói cách khác, trong hệ
thống từ vựng tiếng Việt hiện đại vẫn song song tồn tại
cả hai dạng thức động từ gốc và các tổ hợp động từ
chứa động từ gốc nhưng đã được ngữ pháp hoá như
đánh và đánh rơi, đánh lừa, đánh đổi; hoặc làm và làm
rơi, làm vỡ;...
Bài viết này sẽ so sánh và xem xét sự thay đổi
nghĩa ngữ pháp, mối quan hệ nghĩa ngữ pháp giữa các
động từ gốc (khi được dùng độc lập) và khi là một
thành tố đã được ngữ pháp hóa của một tổ hợp hai
động từ qua nghiên cứu trường hợp đánh và làm.
Abstract: In Vietnamese, there has been a
grammaticalization of the root verb in many phrase
created by a combination of two verbs (a root oneand
another verb). Root verb and the the above-mentioned
phrases are used simultaneously. In other words, of
mordern Vietnamese vocabulary there has been a
coexistence of two forms: (1) root verbs functioned as
free verbs and (2) phrases of two verbs where the root
verb are grammaticalized such as: mất and quên mất,
mua mất, ốm mất, đánh and đánh rơi, đánh lừa, đánh
đổi; làm and làm rơi, làm vỡ...
The purpose of this paper is to compare and
investigate changes of in grammatical meanings and the
grammatical relation between root verbs used as free
verb phrases through the case study of đánh and làm.
Trong sử dụng ngôn ngữ chúng ta vẫn thường
gặp trường hợp một đơn vị từ vựng cũng có thể
thay đổi để đảm nhận chức năng của một đơn vị
ngữ pháp, khi thì là đơn vị từ vựng, khi thì là đơn
vị ngữ pháp. Ví dụ như sự biến đổi chức năng -
ngữ nghĩa của các động từ tiếng Việt. Khi dùng
với tư cách là một động từ đơn các động từ đánh,
rơi, là các đơn vị từ vựng nhưng khi chúng kết
hợp với nhau, tạo nên các tổ hợp động từ như:
đánh rơi, bỏ rơi thì các thành tố trong tổ hợp động
từ đã thay đổi chức năng ngữ nghĩa so với các
động từ đơn gốc. Và nghĩa của các tổ hợp động từ
này không phải là phép cộng nghĩa của các động
từ gốc của chúng.
a) đánh rơi (- chủ ý)
b) bỏ rơi (+ chủ ý)
Chúng ta có thể thấy các động từ đánh, bỏ đã
thay đổi từ ý nghĩa từ vựng sang ý nghĩa ngữ
pháp. Đây là một hiện tượng ngôn ngữ đã xảy ra ở
các đơn vị ngôn ngữ quen thuộc nhưng từ trước
tới nay chưa dành được sự quan tâm nghiên cứu
thích đáng.
1. Lịch sử vấn đề
Khi tham khảo các công trình nghiên cứu về
động từ tiếng Việt và các công trình nghiên cứu về
hư từ tiếng Việt có liên quan đến hiện tượng ngữ
pháp hóa (còn gọi là “hư hóa”) từ trước đến nay
của các tác giả Trương Vĩnh Ký, Ê.Đighê, Trương
Vĩnh Tống, Bùi Đức Tịnh, Lê Văn Lý, Nguyễn
Kim Thản, Nguyễn Anh Quế và Nguyễn Lai
thường chỉ phân tích hiện tượng thay đổi từ ý từ
vựng sang ý nghĩa ngữ pháp của từ một cách đơn
giản và cục bộ.
Trực tiếp đề cập đến vấn đề ngữ pháp hoá có
tác giả Cao Xuân Hạo.
Trần Thị Nhàn trình bày về lịch sử nghiên cứu
ngữ pháp hoá trên thế giới và một số lý thuyết về
ngữ pháp hoá đã được các nhà ngôn ngữ học Âu
Mĩ áp dụng.
Nguyễn Văn Hiệp đã nghiên cứu hiện tượng
ngữ pháp hoá hình thành một số tiểu từ tình thái
cuối câu.
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
456
Hiện tượng thay đổi từ ý nghĩa từ vựng sang ý
nghĩa ngữ pháp của các từ cũng đã được các học
giả nước ngoài nghiên cứu từ khá lâu, được gọi là
hiện tượng ngữ pháp hoá (Grammaticalization).
Meillet, một học giả người Pháp, cũng là nhà ngôn
ngữ học đầu tiên nghiên cứu về ngữ pháp hoá.
Ông định nghĩa ngữ pháp hoá là "sự phát triển để
hình thành các dạng thức ngữ pháp từ các dạng
thức từ vựng trước đó" (Meillet 1948, dẫn theo
E.C.Traugott và B.Heine 1991, tr. 2) hay rộng hơn
là "quá trình biến đổi các từ vị thực từ thành các
dạng thức ngữ pháp và làm cho các dạng thức ngữ
pháp trở nên mang tính ngữ pháp hơn". Và "Ngữ
pháp hoá là quá trình của sự hình thành các phạm
trù ngữ pháp cũng như các dạng thức mã hóa ngữ
pháp diễn ra ở cả hai bình diện đồng đại lẫn lịch
đại" (Elizabeth Closs Traugott và Bernd Heine
1991, tr. 1).
2. Bảng phân loại nghĩa [+ chủ ý]
Đối tượng được thu thập ở đây là những tổ hợp
động từ thể hiện hành động có chủ ý [+ chủ ý] của
con người. Khi hai động từ kết hợp với nhau trong
tổ hợp động từ thì có được nghĩa này. Nghĩa ngữ
pháp này là kết quả của quá trình ngữ pháp hoá.
STT Động từ
ngữ pháp
Nghĩa +
chủ ý
Động từ
từ vựng
Nghĩa +
chủ ý
Tổ hợp
động từ
Nghĩa +
chủ ý
1. đánh + tan - đánh tan +
2. đánh + sập - đánh sập +
3. đánh + bật - đánh bật +
4. đánh + chìm - đánh chìm +
5. làm + bật - làm bật +
6. làm + sập - làm sập +
7. làm + tung - làm tung +
8. làm + chìm - làm chìm +
9. làm + quen - làm quen +
10. làm + lộ - làm lộ +
11. làm + náo loạn - làm náo loạn +
12. bỏ + rơi - bỏ rơi +
Qua bảng phân loại trên ta thấy rằng trong tổ
hợp động từ có hai động từ thành tố. Nhưng trước
khi tham gia vào tổ hợp động từ thì các động từ
đứng trước như đánh, làm và bỏ đã có nghĩa [+
chủ ý], còn các động từ đứng sau có hai loại. Một
loại là các động từ quá trình như động, tan, sập,
chìm, bật, rơi, và một loại là các động từ trạng
thái như lộ, rơi, náo loạn.
Tất cả các động từ quá trình và động từ trạng
thái đứng sau (động, tan, sập, chìm, bật, rơi, lộ,
náo loạn) đều có nghĩa [- chủ ý]. Nhưng khi các
động từ này kết hợp với các động từ hành động
đánh, làm và bỏ (như ví dụ trong bảng trên) thì
chúng kết hợp với nhau, tạo thành các tổ hợp động
từ có nghĩa [+ chủ ý]. Chúng ta có thể thấy rõ
nghĩa [+ chủ ý] của các tổ hợp động từ trong các
ví dụ sau:
1) Nhưng cuối cùng thì anh Trung của chúng
cũng không vì giận chị Giang mà bỏ rơi chúng. /
Hà Nội lúc 0 giờ. Bảo Ninh/
bỏ rơi
2) Nhưng chưa ai biết nên bắt đầu câu chuyện
như thế nào, tôi lại hỏi Hòa cái câu thường lệ của
những người mới làm quen nhau: - Ông cụ bà cụ
sinh ra đồng chí còn cả chứ? Ai ngờ cái câu
tưởng như nhạt nhẽo ấy lại là đầu mối của một
câu chuyện./Nắng chiều. Nguyễn Khải/
làm quen
3) Thời kỳ đóng quân ở Thái Bình, tôi đã nhận
một ông cụ có con hy sinh trong chiến dịch Điện
Biên Phủ làm bố nuôi, tôi đã gọi ông cụ bằng
"thầy" rất vui vẻ, hồn nhiên, với ý định làm giảm
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
457
nỗi đau đớn của một người cha./Nắng chiều.
Nguyễn Khải/
làm giảm
4) Chiến công nổi bật của nó là trận đánh vừa
chận đứng vừa đánh tan một cánh quân Mỹ đợt
hai năm Mậu Thân (1968) trong một làng vùng
ngoại ô Sài Gòn. /Người bạn lính. Nguyễn Quang
Sáng/
đánh tan
5) Không thể để cho họ biết, thủ trưởng của họ
"đang bị vợ con theo dõi bắt quả tang bồ bịch".
Nếu họ biết, chắc rằng họ sẽ có cớ để lôi thêm vào
đó những khuyết tật khác nữa và không khéo họ
đánh bật ông khỏi cương vị này./Thuỷ chung, bài
ca riêng của đàn bà. Trần Thị Trường/
đánh bật
6) Tôi lì lợm thế mà bị Quý đánh gục dễ dàng
bởi một coup de foudre- tiếng sét ái tình- cái danh
từ nghe chừng cải lương nhưng thật sự, sức chấn
động của nó phải người nào đã trải qua mới hiểu
nổi./Chẳng nợ nần gì nhau. Trầm Hương/
đánh gục
Ở đây, các động từ đánh, làm và bỏ đã phát
triển trong quá trình ngữ pháp hoá, và tư cách ngữ
pháp của các động từ đánh, làm và bỏ đã phát
triển ở một mức cao hơn. Khi kết hợp với một
động từ khác trong một tổ hợp động từ nó làm cho
tổ hợp động từ có một nghĩa ngữ pháp mới, cụ thể
ở đây là nghĩa [+ chủ ý]. Đây là nghĩa ngữ pháp
mà các thành tố thứ hai trong tổ hợp động từ
(động, tan, sập, gục, tung, chìm, bật, rơi, lộ, náo
loạn) khi hoạt động độc lập không có.
Mặt khác khi tham gia vào tổ hợp động từ hai
động từ đánh và làm đã không còn mang nghĩa từ
vựng gốc nữa mà đã trở thành một yếu tố có nghĩa
ngữ pháp. Còn các động từ ở ví trí thứ hai như
động, tan, sập, gục, tung, chìm, bật, rơi, lộ, náo
loạn thì vẫn còn mang nghĩa từ vựng gốc nhưng
lại có sự thay đổi nghĩa ngữ pháp. Nghĩa ngữ pháp
của các động từ này khi hoạt động độc lập là các
động từ quá trình và các động từ trạng thái có
nghĩa [- chủ ý], nhưng khi tham gia vào tổ hợp
động từ thì tổ hợp động từ lại là loại động từ hành
động có nghĩa [+ chủ ý].
Riêng trong trường hợp bỏ rơi thì nghĩa từ
vựng gốc của cả hai động từ không thay đổi khi
kết hợp với nhau trong tổ hợp động từ nhưng
nghĩa ngữ pháp của tổ hợp động từ khác với nghĩa
ngữ pháp của rơi khi hoạt động độc lập. Khi hoạt
động độc lập, rơi là loại động từ trạng thái có
nghĩa [- chủ ý] nhưng khi kết hợp với bỏ, động từ
hành động có nghĩa [+ chủ ý] thì tổ hợp bỏ rơi có
nghĩa [+ chủ ý]. Bỏ rơi là làm rơi, để rơi cái gì
một cách có chủ ý.
Các trường hợp đánh sập, làm sập; đánh tung,
làm tung; đánh chìm, làm chìm có thể thay thế cho
nhau khi sử dụng: có thể nói đánh sập ngôi nhà và
làm sập ngôi nhà; có thể nói đánh tung chùm chìa
khoá và làm tung chùm chìa khoá; có thể nói đánh
chìm con tàu và làm chìm con tàu.
Riêng trường hợp đánh bật, làm bật có một sự
khác nhau khi sử dụng: có thể nói đánh bật rễ cây,
làm bật rễ cây; đánh bật móng chân, làm bật
móng chân nhưng chỉ có thể nói đánh bật quân
giặc mà không thể nói làm bật quân giặc hoặc có
thể nói công ty A đánh bật công ty B mà không thể
nói công ty A làm bật công ty B. Có nghĩa là với
những hành động cụ thể thì có thể dùng đánh bật
hoặc làm bật còn với các hành động có nghĩa trừu
tượng hơn thì chỉ có thể dùng đánh bật.
Các tổ hợp động từ đánh bật, đánh sập, đánh
tung, đánh chìm, đánh quỵ, làm bật, làm sập, làm
tung, làm chìm, xô ngã có thể có nghĩa [+ chủ ý]
hoặc [- chủ ý]. Nếu chủ thể hành động là người thì
tổ hợp động từ có nghĩa [+ chủ ý], còn nếu chủ thể
hành động không phải là người thì tổ hợp động từ
lại có nghĩa [- chủ ý]. Ví dụ:
1) ...cái cổng đền đã bị bom đánh sập...
/ Khách ở quê ra. Nguyễn Minh Châu /
đánh sập [- chủ ý]
- Chúng nó đánh sập nhà tôi rồi.
đánh sập [+ chủ ý]
2) - Bão đánh bật rễ cây.
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
458
đánh bật [- chủ ý]
- .......không khéo họ đánh bật ông khỏi cương
vị này./Thuỷ chung, bài ca riêng của đàn bà. Trần
Thị Trường/
đánh bật [+ chủ ý]
3) - Dù con Vá nhiều lúc có nổi xung, nhẩy
dựng ngược, quay đầu đánh tung sợi thừng vướng
víu, sự bực mình ấy vẫn cứ là trò chơi kia
mà./Tiếng gọi ngàn. Đoàn Giỏi /
đánh tung [- chủ ý]
- Bọn trộm đánh tung khoá cửa nhà bà ấy.
đánh tung [+ chủ ý]
4) - Trong cuộc đời chỉ coi tiền là phương tiện
thì sẽ không bị đồng tiền nó đè, nó đánh chìm, nó
mê hoặc. / Tiền của ông. Bùi Bình Thi /
đánh chìm [- chủ ý]
- Họ định đánh chìm con tàu.
đánh chìm [+ chủ ý]
5) Gã nghĩ mà thấy kinh. Rồi cũng đến một lúc
nào đấy, căn bệnh ấy sẽ lây sang gã là cái chắc
chắn. Bây giờ cơ thể còn tạm gọi là khỏe mạnh,
còn chống chọi được, chứ ít nữa yếu đi rồi thì
trước sau cũng bị nó đánh quỵ./Chuyện tình
không có nước mắt. Nguyễn Hoài Phương/
đánh quỵ [- chủ ý]
- Anh bị bọn cướp đánh quỵ.
đánh quỵ [+ chủ ý]
Bảng phân loại nghĩa trên cũng cho chúng ta
thấy một điều đặc biệt là hai động từ đánh và làm
là hai động từ có khả năng ngữ pháp hoá rất mạnh
khi tham gia vào các tổ hợp động từ. Đánh và làm
có thể kết hợp với rất nhiều động từ quá trình để
tạo thành tổ hợp động từ có nghĩa [+ chủ ý].
3. Bảng phân loại nghĩa [- chủ ý]
Đối tượng được thu thập ở đây là những tổ hợp
động từ thể hiện hành động không chủ ý [- chủ ý]
của con người. ở đây cần phân biệt rõ những hoạt
động, quá trình của thế giới vô tri vốn không bao
giờ có sự chủ ý với các hành động có chủ ý hoặc
không có chủ ý của con người
Số TT Động từ
ngữ pháp
Nghĩa +
chủ ý
Động từ
từ vựng
Nghĩa +
chủ ý
Tổ hợp
động từ
Nghĩa +
chủ ý
1. làm + rơi - làm rơi -
2. làm + vỡ - làm vỡ -
3. làm + hỏng - làm hỏng -
4. làm + mất - làm mất -
5. đánh + đổ - đánh đổ -
6. đánh + vỡ - đánh vỡ -
7. đánh + ngã - đánh ngã -
8. đánh + rơi - đánh rơi -
9. đánh + mất đánh mất -
10. mắc - lừa + mắc lừa -
11. mắc - bẫy + mắc bẫy -
12. bắt + gặp + bắt gặp -
13. ăn + phải ăn phải -
Tất cả các tổ hợp động từ trên đều có nghĩa [-
chủ ý], nhưng nếu phân tích từng động từ thành
tố, chúng ta sẽ thấy xảy ra hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất: Với các tổ hợp động từ
làm rơi, làm vỡ, làm hỏng, làm mất, đánh đổ,
đánh vỡ, đánh ngã, đánh rơi, đánh mất, hai động
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
459
từ đánh và làm khi hoạt động độc lập vốn là động
từ hành động có nghĩa [+ chủ ý], còn các động từ
ở vị trí thứ hai trong các tổ hợp động từ là động từ
quá trình có nghĩa [- chủ ý] như rơi, vỡ, gãy, đổ,
ngã, mất và động từ trạng thái hỏng cũng có nghĩa
[- chủ ý]. Nhưng sau khi các động từ này kết hợp
với nhau trong tổ hợp động từ thì các tổ hợp động
từ ở đây đã trở thành tổ hợp động từ hành động có
nghĩa [- chủ ý]. Đáng chú ý là các động từ quá
trình động từ trạng thái ở vị trí thứ hai trong tổ
hợp động từ đều là các động từ có nghĩa tiêu cực.
Như vậy là nghĩa ngữ pháp của tổ hợp động từ
có chiều ngược lại với nghĩa ngữ pháp của hai
động từ thành tố đánh và làm (khi hai động từ này
còn hoạt động độc lập).
Khi đánh và làm tham gia vào tổ hợp động từ
thì chúng không còn mang nghĩa từ vựng gốc nữa
mà trở thành một yếu tố có nghĩa ngữ pháp.
Chúng ta có thể tham khảo nghĩa từ vựng của
đánh và làm trong Từ điển tiếng Việt: đánh đg.1.
Làm đau, làm tổn thương bằng tác động của một
lực. Đánh mấy roi. làm đg. 1. Dùng công sức tạo
ra cái gì trước đấy không có. Làm nhà. Chim làm
tổ. (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên,
1998). Còn đánh rơi, làm rơi có nghĩa là: để rơi
cái gì một cách không chủ ý. ở đây, các động từ
rơi, vỡ, gãy, đổ, ngã, mất, hỏng vẫn còn mang
nghĩa từ vựng gốc khi tham gia vào các tổ hợp
động từ nhưng nghĩa ngữ pháp của tổ hợp động từ
khác với nghĩa ngữ pháp gốc của các động từ này.
Các động từ này khi hoạt động độc lập là các động
từ quá trình hoặc trạng thái có nghĩa [- chủ ý]
nhưng khi chúng kết hợp với đánh và làm thì kết
quả là các tổ hợp động từ lại là các tổ hợp động từ
hành động có nghĩa
[- chủ ý]. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua
các ví dụ cụ thể sau:
1) Lúc đó mọi người hiểu rõ ràng hơn, không
phải chỉ lần này, mà rất nhiều lần khác nữa, vì vô
tình họ đã đánh mất những khoảnh khắc lý ra đã
rất ấm êm và hạnh phúc trong đời sống vốn đầy
bất an của mình./Bay qua thời gian. Nguyễn Thị
Châu Giang/
đánh mất
2) Không khí tĩnh lặng quá khiến cô vừa đọc
vừa gà gật, và thỉnh thoảng cô lại đánh rơi sách. /
Con sóc. Ma Văn Kháng/
đánh rơi
3) Cô ấy vừa làm đổ quạt.
làm đổ
4) Cháu đoảng quá, lại làm vỡ bát đĩa rồi chứ gì?
làm vỡ
Trường hợp thứ hai: Trong hai tổ hợp động từ
mắc lừa, mắc bẫy, động từ mắc khi hoạt động độc
lập có nghĩa [- chủ ý], còn hai động từ lừa và bẫy
khi hoạt động độc lập thì có nghĩa [+ chủ ý].
Nhưng khi các động từ này kết hợp với nhau trong
tổ hợp động từ thì hai tổ hợp động từ mắc lừa,
mắc bẫy lại có nghĩa [- chủ ý]. ở đây, nghĩa ngữ
pháp của tổ hợp động từ có chiều ngược lại với
nghĩa ngữ pháp của mắc và bắt khi hai động từ
này còn hoạt động độc lập. Mắc lừa có nghĩa là do
không chú ý, không để ý nên bị người khác lừa.
Mắc bẫy cũng có nghĩa là bị người khác bẫy do
không chú ý, không để ý.
Ở các tổ hợp động từ ăn phải, mua phải, gặp
phải thì các động từ ăn, mua, gặp (ở vị trí thứ nhất
trong tổ hợp động từ) khi hoạt động độc lập là các
động từ có nghĩa [+ chủ ý], còn động từ phải khi
hoạt động độc lập là động từ có nghĩa tình thái,
không liên quan đến chiều nghĩa [+ chủ ý]. Nhưng
khi các động từ này kết hợp với nhau trong tổ hợp
động từ thì tổ hợp động từ có nghĩa [- chủ ý]. Vậy
nghĩa [- chủ ý] của tổ hợp động từ là nghĩa ngữ
pháp mới so với nghĩa ngữ pháp của các động từ
gốc (khi chúng còn hoạt động độc lập). Các động
từ khi kết hợp với nhau đã có một tư cách ngữ
pháp mới.
Trường hợp làm đổ và đánh đổ có một sự khác
nhau khi sử dụng. Làm đổ chỉ có nghĩa [- chủ ý]
và [+ tác động] nhưng đánh đổ có thể có nghĩa [-
chủ ý] hoặc [+ chủ ý] và [+ tác động].
Ví dụ: - Nó làm đổ cốc nước. [- chủ ý] và [+
tác động]
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
460
- Nó đánh đổ cái xe máy. [- chủ ý] và [+
tác động]
- .......đánh đổ chế độc tài. [+ chủ ý] và [+
tác động]
4. Kết luận
Ngữ pháp là một lĩnh vực được coi là ít thay
đổi trong ngôn ngữ. Nhưng qua việc khảo sỏt quỏ
trỡnh ngữ phỏp húa diễn ra ở một số tổ hợp động
từ cú nghĩa (+chủ ý) và (-chủ ý), chúng ta thấy
nghĩa ngữ pháp của các động từ đã có sự thay đổi.
Kết quả là ở các tổ hợp động từ xuất hiện những
phạm trù ngữ pháp mới mà các động từ thành tố
trong tổ hợp trước đây không có.
Ví dụ:
- làm rơi có nghĩa [- chủ ý] khác với làm có
nghĩa [+ chủ ý].
- làm vỡ có nghĩa [- chủ ý] khác với làm có
nghĩa [+ chủ ý].
- đánh đổ có nghĩa [- chủ ý] khác với đánh có
nghĩa [+ chủ ý].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Xuân Hạo, 1991. Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp
chức năng, tập 1. Nxb Khoa học xã hội, Hồ Chí Minh.
2. Cao Xuân Hạo. Về ý nghĩa thì và thể trong tiếng
Việt. Tạp chí ngôn ngữ, số 5, 1998.
3. Đỗ Hữu Châu 1998. Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng.
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Đinh Văn Đức, 1986. Ngữ pháp tiếng Việt từ loại.
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
5. Hoàng Phê (chủ biên), 1998. Từ điển tiếng Việt (tái
bản lần thứ sáu). Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
6. Nguyễn Anh Quế, 1988. Hư từ trong tiếng Việt hiện
đại. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Kim Thản, 1977. Động từ trong tiếng Việt.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Lai, 1981. Tìm hiểu sự chuyển hoá nghĩa từ
vựng theo hướng hư hoá (Kỷ yếu Hội nghị khoa học).
Đại học tổng hợp Hà Nội.
9. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, 1998.
Thành phần câu tiếng Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
10. Nguyễn Thị Quy, 1990.Vị từ hành động tiếng
Việt và các tham tố của nó. Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
11. Nguyễn Thiện Giáp, 1985. Từ vựng học tiếng
Việt. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà
Nội.
12. Nguyễn Văn Hiệp 2001a. Hướng đến một cách
phân loại các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt. Tạp
chí Ngôn ngữ, số 5/2001.
13. Nguyễn Văn Hiệp 2001b. Về một khía cạnh phân
tích tầm tác động tình thái. Tạp chí Ngôn ngữ, số
11/2001.
14. E.C. Traugott and B.heine (eds) 1991.
Approaches to grammaticization, Volume I.
Amsterdam: John Benjamins publishing company.