Khoa di sản văn hóa: 60 năm hình thành và phát triển

Tóm tắt Khoa Di sản văn hóa là cơ sở đào tạo ngành Bảo tàng học đầu tiên ở Việt Nam, được hình thành ngay từ những ngày đầu thành lập Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (26/3/1959). Khoa có sứ mệnh đi đầu trong truyền bá tri thức và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Di sản văn hóa. Trải qua 60 năm hình thành và phát triển, Khoa đã đào tạo hàng ngàn cử nhân phục vụ sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam. Tiếp nối truyền thống 60 năm qua, bên cạnh những thành tựu đạt được, Khoa cần xác định rõ những khó khăn, thách thức và định hướng phát triển đào tạo trong bối cảnh hội nhập hiện nay.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khoa di sản văn hóa: 60 năm hình thành và phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
128 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 KHOA DI SẢN VĂN HÓA: 60 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGUYỄN SỸ TOẢN Tóm tắt Khoa Di sản văn hóa là cơ sở đào tạo ngành Bảo tàng học đầu tiên ở Việt Nam, được hình thành ngay từ những ngày đầu thành lập Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (26/3/1959). Khoa có sứ mệnh đi đầu trong truyền bá tri thức và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Di sản văn hóa. Trải qua 60 năm hình thành và phát triển, Khoa đã đào tạo hàng ngàn cử nhân phục vụ sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam. Tiếp nối truyền thống 60 năm qua, bên cạnh những thành tựu đạt được, Khoa cần xác định rõ những khó khăn, thách thức và định hướng phát triển đào tạo trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Từ khóa: Đại học Văn hóa Hà Nội, Khoa Di sản văn hóa, đào tạo, nghiên cứu khoa học Abstract The Faculty of Cultural Heritage is the first education institution which trains museum ology in Vietnam. It was established at the same time with the foundation of Hanoi University of Culture (March 26, 1959). The Faculty has the mission of to be the leading in spreading knowledge and training high quality human resources for cultural heritage branch. During 60 years of establishment and development, the Faculty has trained thousands of bachelors to serve the cause of protecting and promoting the value of Vietnamese cultural heritage. Continuing the tradition of the past 60 years, in addition to the achievements, the Faculty needs to clearly identify difficulties, challenges and orientation of training development in the context of current integration. Keywords: Hanoi University of Culture, Faculty of Cultural Heritage, training, scientific research 1. Khoa Di sản văn hóa 60 năm nhìn lại Khoa Di sản văn hóa (tiền thân là Khoa Bảo tàng) đã trải qua 60 năm hình thành và phát triển, quá trình đào tạo của Khoa luôn gắn với sự phát triển chung của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 1.1. Các giai đoạn phát triển Giai đoạn 1959 - 1977: Khoa đào tạo các lớp trung cấp, chuyên tu bảo tàng, và đặc biệt, ngay từ khi thành lập, Khoa đã rất quan tâm và mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ bảo tồn - bảo tàng. Giai đoạn 1977 - 1992: Khoa được giao nhiệm vụ đào tạo bậc đại học, sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân văn hóa ngành Bảo tàng; đồng thời tiếp tục đào tạo các lớp ngắn hạn. Giai đoạn này Khoa cũng tiến hành xây dựng các tổ bộ môn Bảo tàng và Bảo tồn di tích. Các giảng viên được kiện toàn sinh hoạt khoa học theo các hướng nghiên cứu sâu hơn về các khâu hoạt động nghiệp vụ của bảo tàng và bảo tồn di tích. Giai đoạn 1993 - 2000: Ngoài việc tiếp tục đào tạo bậc đại học (hệ chính quy và hệ vừa học vừa làm), năm 1993 Khoa mở đào tạo chuyên ngành Văn hóa du lịch và thành lập bộ môn Quản lý và giám định cổ vật thuộc ngành Bảo tàng học. Căn cứ nhu cầu xã hội và sự phát triển của trường, sau 7 năm đào tạo, đến năm 2000, Nhà trường đã tách riêng chuyên ngành Văn hóa du lịch và thành lập Khoa Văn hóa du lịch (nay là Khoa Du lịch) thuộc Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Như vậy, trong 7 năm của giai 129Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN đoạn này, Khoa đào tạo cả cử nhân bảo tàng và văn hóa du lịch. Giai đoạn từ 2001 đến nay: Ở giai đoạn này, Khoa không duy trì tổ bộ môn Quản lý và giám định cổ vật, chỉ còn hai tổ bộ môn Bảo tàng và Di tích. Khoa tiếp tục thực hiện đa dạng hóa các hình thức đào tạo (chính quy; vừa làm, vừa học; bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ bảo tàng; tín ngưỡng, tôn giáo; giám định, quản lý cổ vật; hướng dẫn nghiệp vụ tại di tích; đào tạo các lớp bồi dưỡng kiến thức về bảo quản, tu bổ di tích, học viên của lớp tu bổ là các kiến trúc sư hoạt động trong lĩnh vực tu bổ di tích trong cả nước) nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội nói chung và sự đổi mới đào tạo của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội nói riêng. Năm 2012, Khoa chuyển từ phương thức đào tạo niên chế sang phương thức đào tạo tín chỉ. Đây là bước đột phá trong công tác đào tạo của Khoa. Năm 2014 là dấu mốc quan trọng đối với chiến lược đào tạo của Khoa. Khi nhu cầu xã hội theo học ngành Bảo tàng giảm, Khoa đã kịp thời mở đào tạo chuyên ngành Quản lý di sản văn hóa bậc đại học đầu tiên ở Việt Nam. Đến nay Khoa đã tuyển sinh được 5 khóa, số lượng sinh viên khá ổn định cho thấy hướng đi của Khoa đang phù hợp nhu cầu xã hội. Năm 2018, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Nhà trường giao, Khoa mở các lớp bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ và cấp chứng chỉ cho các viên chức hoàn thiện hồ sơ thi nâng ngạch Di sản viên hạng II, hạng III. Nhìn chung, các hình thức đào tạo của Khoa góp phần cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, nhằm đáp ứng xu thế hội nhập trong tình hình mới của đất nước. Ngoài việc đào tạo tại trường, Khoa Di sản văn hóa đã góp phần quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực cho một số cơ sở đào tạo khác như: Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. 1.2. Đội ngũ giảng viên Trong 60 năm qua, Khoa Di sản văn hóa đã xây dựng được một đội ngũ giảng viên hùng hậu, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Di sản văn hóa. Đối với đào tạo bậc đại học, đội ngũ giảng viên được hình thành từ hai nguồn chính là giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng. Giảng viên cơ hữu: Những ngày đầu khoa gặp khó khăn về đội ngũ giảng viên cơ hữu. Trong suốt quá trình đào tạo khoa luôn có sự bổ sung phù hợp trong từng giai đoạn. Với bề dày truyền thống đào tạo 60 năm, thật khó có thể thống kê đầy đủ và bóc tách rõ ràng những năm tháng công tác của tất cả các giảng viên đã từng làm việc tại khoa. Khi Nhà trường sáp nhập tổ Lịch sử của trường vào khoa thì đội ngũ giảng viên của khoa không chỉ là giảng viên chuyên ngành về bảo tàng, di sản văn hóa mà bao gồm cả các giảng viên dạy lịch sử cho toàn trường. Bên cạnh đó, có những giảng viên của khoa có thời gian công tác một vài năm chưa kịp lên lớp đã chuyển công tác. Vì vậy, bài viết này chủ yếu đề cập đến đội ngũ giảng viên cơ hữu có nhiều năm công tác tại khoa và trực tiếp giảng dạy lĩnh vực chuyên ngành. Quá trình đào tạo của khoa là sự kế tiếp, đan xen của nhiều thế hệ cán bộ giảng viên. Đội ngũ giảng viên của khoa được đào tạo từ hai nguồn trong nước (chủ yếu được đào tạo từ khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp, nay là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội) và nguồn nước ngoài chủ yếu được đào tạo từ các nước Đông Âu. Thế hệ tiền bối và các thế hệ kế tiếp có công đặt nền móng xây dựng và phát triển sự nghiệp đào tạo ngành bảo tàng ở Việt Nam, có thể kể đến các thầy/cô như: Nguyễn Văn Lợi (đã mất), Đặng Quang Văn (đã mất), Lê Tư Lành (đã mất), Lê Xuân Cảnh (đã mất), Nguyễn Đăng Duy (đã mất), (Cố) PGS.TS. Phan Khanh, Lê Thị Dung, Nguyễn Hồ Hùng, Vương Thiệu Hùng, TS. Nguyễn Thị Minh Lý, Ths. Diêm Thị Đường, PGS.TS. Bùi Văn Tiến, PGS.TS. Trịnh 130 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 Thị Minh Đức, PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ, thầy Nguyễn Thịnh, cô Nguyễn Hồng Cơ, PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến,... Đến thập kỷ 90 của thế kỷ XX, thế hệ kế tiếp được bổ sung các thầy/cô: Trần Nhoãn, Phạm Thị Thu Hương, Dương Văn Sáu, Nguyễn Sỹ Toản, Bùi Thanh Thủy.... Năm 2000, Nhà trường tách chuyên ngành Văn hóa Du lịch thành lập Khoa Văn hóa Du lịch thuộc trường các thầy/cô:Trần Nhoãn, Dương Văn Sáu, Bùi Thanh Thủy đã chuyển sang công tác tại Khoa Văn hóa Du lịch. Hiện nay, khoa có 10 cán bộ, giảng viên, trong đó: có 01 Phó Giáo sư, tiến sĩ; 02 tiến sĩ; 05 nghiên cứu sinh và 02 thạc sĩ. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì giảng viện dạy đại học tối thiểu phải có bằng thạc sĩ. Như vậy, 100% cán bộ giảng viên của khoa đạt tiêu chuẩn theo quy định. Khoa Di sản văn hóa luôn quan tâm đến việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng kiến thức sâu, rộng cho đội ngũ giảng viên. Khoa luôn tạo điều kiện cho giảng viên đi học nâng cao trình độ bằng nhiều hình thức, như: học cao học, nghiên cứu sinh, thực tập sinh trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, khoa cũng mời được các chuyên gia bảo tàng nước ngoài (Anh, Mỹ) tới tập huấn tại trường cập nhật những kiến thức mới về bảo tàng học cho giảng viên của khoa, đồng thời khoa cũng quan tâm bồi dưỡng nâng cao kiến thức về ngoại ngữ và tin học nhằm đáp ứng đào tạo trong thời kỳ mới. Giảng viên thỉnh giảng: Với truyền thống “tôn sư, trọng đạo”, vai trò người thầy luôn được đánh giá rất cao trong quá trình đào tạo, “không thầy đố mày làm nên”. Xuất phát từ quan niệm “có thầy giỏi mới có trò giỏi”, khoa đã vinh dự mời được đội ngũ giảng viên thỉnh giảng là các giáo sư, các nhà khoa học giỏi có uy tín trong các lĩnh vực: sử học, văn hóa học, bảo tàng học, di sản, dân tộc học, Hán Nôm tham gia giảng dạy cho khoa, có thể kể đến các thầy/cô, như: (cố) GS. Trần Quốc Vượng, (cố) PGS. Từ Chi, (cố) GS.TS. Hoàng Nam, (cố) PGS. Chu Quang Trứ, (cố) PGS.TS. Đỗ Văn Ninh, (cố) PGS.TS. Trịnh Cao Tưởng, GS. Hà Văn Tấn, GS.TS. Nguyễn Chí Bền, PGS.TS. Hoàng Văn Khoán, GS.TS. Trương Quốc Bình, GS.TS. Trịnh Sinh, PGS.TS. Trần Lâm Biền, PGS.TS. Nguyễn Quốc Hùng, PGS.TS. Đặng Văn Bài, PGS.TS. Bùi Minh Trí, TS. Phạm Quốc Quân, TS. Nguyễn Đình Chiến, TS. Nguyễn Thế Hùng, TS. Phạm Văn Thắm, TS. Nguyễn Hữu Mùi, PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, Ths. Triệu Hiển, Trong 60 năm qua đội ngũ giảng viên thỉnh giảng đã đóng góp công sức, trí tuệ, tài năng và nhiệt huyết rất lớn đối với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực của khoa. Các thế hệ giảng viên thỉnh giảng là những tấm gương luôn được ghi nhớ và khắc sâu trong tâm trí của cả thầy và trò Khoa Di sản văn hóa qua các thời kỳ. Như vậy, có thể thấy đội ngũ giảng viên (cơ hữu và thỉnh giảng) của Khoa rất hùng hậu, nhiều thầy cô có học hàm, học vị cao, là những nhà khoa học đầu ngành có uy tín trong cả nước. Nhìn lại 60 năm qua, Khoa Di sản văn hóa rất tự hào vì đã xây dựng được đội ngũ giảng viên giỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo, góp phần quyết định chất lượng nguồn nhân lực hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giữ gìn bản sắc dân tộc trong hội nhập và phát triển đất nước. 1.3.Thành tựu trong đào tạo Khoa Di sản văn hóa là cơ sở hàng đầu đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa có uy tín của đất nước. Đến nay, Khoa đã tuyển sinh đào tạo Bảo tàng bậc đại học hệ chính quy khóa 38 và chuyên ngành Quản lý di sản văn hóa khóa 5. Hàng ngàn sinh viên của Khoa đã tốt nghiệp và công tác trên khắp mọi miền Tổ quốc. Tại các cơ quan như: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các bảo tàng, các ban quản lý di tích và danh lam thắng cảnh trên phạm vi cả nước, các trường đại học, viện nghiên cứu,... đều có sự hiện diện của những cán bộ đã từng học tập tại Khoa Di sản văn hóa, rất nhiều người trong số họ đã trở thành 131Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN cán bộ chủ chốt của cơ quan, đơn vị. Theo thống kê sơ bộ, có tới hàng trăm người hiện nay đang giữ các vị trí trưởng, phó các đơn vị phòng, ban, khoa; giám đốc, phó giám đốc các bảo tàng, các ban quản lý di tích; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường đại học, lãnh đạo các đơn vị cục, vụ, viện; lãnh đạo ủy ban nhân dân tỉnh, giám đốc các sở, ban, ngành. Bên cạnh đó, nhiều người sau khi tốt nghiệp đã tiếp tục học tập, nghiên cứu để đạt học hàm, học vị cao hơn. Theo số liệu chưa đầy đủ, có tới hàng trăm cựu sinh viên của Khoa có học vị từ thạc sĩ trở lên, trong đó có khoảng trên 10 tiến sĩ, 07 phó giáo sư, tiến sĩ. Năm 2018, Đại học Văn hóa Hà Nội được phong 06 phó giáo sư, trong đó 04 phó giáo sư (PGS.TS. Phạm Thị Thu Hương, PGS.TS. Dương Văn Sáu, PGS. TS. Nguyễn Sỹ Toản, PGS.TS. Bùi Thanh Thủy) nguyên là sinh viên được đào tạo từ Khoa Di sản văn hóa. Bên cạnh việc đào tạo nguồn nhân lực trong nước, Khoa Di sản văn hóa còn góp phần đáng kể vào việc đào tạo nguồn nhân lực bảo tàng cho các nước bạn như Lào, Campuchia. Một số sinh viên của Khoa sau khi tốt nghiệp đại học đã quay trở lại Việt Nam học thạc sĩ, tiến sĩ. Hiện nay, nhiều người trong số họ rất thành đạt và đang giữ những trọng trách trong lĩnh vực văn hóa và di sản của các nước bạn. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Khoa luôn chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo. Việc mở thêm các chuyên ngành đào tạo mới và cam kết đảm bảo thực hiện tốt chuẩn đầu ra phù hợp với bối cảnh và nhu cầu xã hội đã góp phần nâng cao uy tín và thương hiệu đào tạo của Khoa; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên có thêm nhiều cơ hội được tuyển dụng vào các cơ quan, tổ chức, đảm nhiệm các vị trí xã hội cũng như tiếp tục học tập, nâng cao trình độ chuyên môn. 1.4. Nghiên cứu khoa học và xuất bản học liệu Đối với giảng viên đại học, công tác giảng dạy phải song hành với công tác nghiên cứu khoa học. Với tinh thần đó, Khoa Di sản văn hóa trước hết xác định nghiên cứu để phục vụ cho việc xây dựng chương trình, biên soạn bài giảng, giáo trình, sách chuyên khảo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Khoa đã không ngừng tìm tòi mở rộng diện nghiên cứu đối với lĩnh vực di sản văn hóa, phù hợp nhu cầu xã hội, kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa lý luận và thực tiễn, giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học. Với truyền thống 60 năm xây dựng và phát triển, Khoa Di sản văn hóa là đơn vị có bề dày thành tích nghiên cứu khoa học. Cán bộ của Khoa thường xuyên tham gia các hội thảo. Khoa đã tổ chức hàng chục hội thảo cấp khoa và phối hợp tổ chức một số hội thảo quốc gia. Đến nay các thế hệ cán bộ giảng viên của Khoa đã công bố hàng trăm bài báo khoa học đăng trên các tạp chí, các hội thảo, hội nghị trong và ngoài nước; trực tiếp chủ trì, chủ nhiệm hoặc tham gia thực hiện thành công nhiều đề tài, đề án khoa học các cấp từ cấp Trường, cấp Bộ, Thành phố đến cấp Nhà nước. Có thể kể đến một số đề tài cấp Bộ như: Hiện trạng và giải pháp đổi mới bảo tàng tỉnh (thành phố) vùng đồng bằng Bắc Bộ (PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ làm chủ nhiệm); Nghiên cứu giá trị các di tích có liên quan đến triều Lý ở Bắc Ninh (PGS.TS. Trịnh Thị Minh Đức làm chủ nhiệm); Nghiên cứu một số ngôi chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm, những giá trị lịch sử - văn hóa (PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến làm chủ nhiệm); Nghiên cứu thực trạng và giải pháp bảo tồn di sản văn hóa tại các vùng đang trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở đồng bằng sông Hồng (TS. Phạm Thị Thu Hương làm chủ nhiệm); Điều tra, nghiên cứu một số sưu tập cổ vật tư nhân ở vùng châu thổ Bắc Bộ (TS. Nguyễn Sỹ Toản làm chủ nhiệm) Năm 2018, Khoa đã thực hiện thành công 2 đề tài cấp Bộ nghiên cứu lĩnh vực di sản như: Nghiên cứu linh vật Việt trong các di tích quốc gia ở Hà Nội (PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến làm chủ nhiệm); Nghiên cứu các giải pháp phát huy giá trị di sản Hán Nôm ở các di tích quốc gia đặc biệt trên địạ bàn Hà Nội (PGS.TS. Nguyễn Sỹ Toản làm chủ nhiệm). Các đề tài được hội đồng nghiệm thu và đánh giá cao về tính ứng dụng thực tiễn. 132 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 Chương trình đào tạo của Khoa được biên soạn và chỉnh sửa nhiều lần. Năm 2010, Khoa đã xây dựng xong 03 Bộ chương trình giáo dục đại học cho các trình độ đại học, cao đẳng và liên thông ngành Bảo tàng học. Năm 2013, Khoa đã hoàn thành xong Bộ đề cương chi tiết các môn học theo hệ thống tín chỉ ngành Bảo tàng học. Khoa luôn đi đầu trong quá trình xây dựng chương trình, đề cương môn học, biên soạn bài giảng theo hệ thống tín chỉ của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Năm 2019, Khoa đang tiến hành rà soát, cập nhật chỉnh sửa chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo của khoa, điều chỉnh từ 132 tín chỉ xuống 125 tín chỉ theo hướng tinh gọn, chất lượng và hiệu quả, phù hợp tình hình mới hiện nay. Khoa đã xuất bản khoảng trên 50 đầu sách gồm: giáo trình đại học, sách tham khảo, sách chuyên khảo. Một số giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo được xuất bản gần đây như: Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa; Cơ sở bảo tàng học; Đại cương về cổ vật ở Việt Nam; Lịch sử Sự nghiệp Bảo tồn - Bảo tàng Việt Nam; Quản lý bảo tàng; Sưu tầm hiện vật bảo tàng; Tiền cổ học và tiền cổ Việt Nam; Bảo tàng hóa di tích; Di sản văn hóa Việt Nam - Bản sắc và những vấn đề về quản lý, bảo tồn; Đặc trưng đồ gốm văn hóa Tiền Đông Sơn ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc Các giáo trình dự kiến sẽ xuất bản: Di sản văn hóa; Quản lý di sản văn hóa; Trưng bày hiện vật bảo tàng; Công tác giáo dục của bảo tàng; Kiểm kê và xếp hạng di tích Mặc dù vậy, với yêu cầu về tài liệu học tập trong bối cảnh đào tạo theo học chế tín chỉ thì số lượng sách xuất bản của Khoa vẫn còn hạn chế, do đó cần đẩy mạnh hơn trong thời gian tới nhằm đáp ứng nhu cầu học liệu cho sinh viên. 1.5. Hợp tác đào tạo trong nước và quốc tế Hợp tác đào tạo trong nước: Khoa đã phối hợp với Viện Khảo cổ học, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban quản lý di tích, các Bảo tàng, Phòng Văn hóa quận (huyện) đưa sinh viên khai quật khảo cổ Khu di tích Hoàng thành Thăng Long; thực tập tại các bảo tàng; tham gia sưu tầm, tổng kiểm kê hiện vật tại các di tích lịch sử - văn hóa ở một số tỉnh/thành phố; tham gia các dự án điều tra, phân loại giám định, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cho nhiều tỉnh/thành; tham gia xây dựng nhà truyền thống cho một số quận, huyện Khoa cũng đã phối hợp cử cán bộ giảng viên đi học nghiên cứu sinh tại Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hợp tác đào tạo ngoài nước: Đối với các nước chậm phát triển như Việt Nam, hợp tác quốc tế vừa là đòi hỏi vừa là thời cơ, nhất là trong lĩnh vực đào tạo. Cũng như các khoa khác trong toàn trường, hoạt động hợp tác quốc tế của Khoa Di sản văn hóa cơ bản phụ thuộc vào hoạt động hợp tác quốc tế của Nhà trường. Ngoài ra, Khoa cũng chủ động một phần hợp tác quốc tế qua Cục Di sản văn hóa. Thời gian qua, Nhà trường đã tích cực triển khai việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ quốc tế liên quan đến hoạt động đào tạo, trao đổi giảng viên và sinh viên. Khoa tham gia đón tiếp một số đoàn đại biểu nước ngoài đến tìm hiểu, trao đổi kinh nghiệm trong đào tạo như Mỹ, Thái Lan, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc... Khoa cử cán bộ, giảng viên, sinh viên đi thực tế, hội thảo, học tập tại Hàn Quốc, Anh, Trung Quốc, Nga, Thái Lan, Myanmar. Năm 2018, có 01 sinh viên của Khoa đủ điều kiện học đại học tại Nga và vào tháng 2/2019 khoa cử 01 giảng viên tham gia hội thảo tại Myanmar. Một số chuyên gia bảo tàng của Anh và Mỹ đã tới Đại học Văn hóa Hà Nội tập huấn cập nhật kiến thức mới về bảo tàng học và di sản văn hóa phi vật thể cho cán bộ của Khoa. Tuy nhiên, có thể thấy, hoạt động hợp tác đào tạo của Khoa vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội trong bối cảnh đổi mới. Đặc biệt, Khoa còn chưa có sự chủ động mà vẫn phụ thuộc vào hoạt động hợp tác quốc tế của Trường. 2. Định hướng phát triển Di sản văn hóa là nền tảng cốt lõi khẳng định bản lĩnh, bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập, đồng thời là tài sản, là nguồn lực 133Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN quan trọng đối với sự phát triển bền vững đất nước. Trong khi Khoa đang gặp nhiều khó khăn về nguồn tuyển sinh, số lượng người đăng ký theo học ngành Bảo tàng giảm dần. Vì vậy, Khoa cần phải xác định rõ sứ mệnh, mục tiêu đào tạo và định hướng đổi mới những yếu tố cơ bản để đào tạo được nguồn nhân lực cho ngành Di sản văn hó