Mởrộng cho vay, tăng dưnợlành mạnh và nâng cao thu nhập ngân
hàng luôn là một trong những mục tiêu dài hạn của một ngân hàng thương
mại (NHTM). Đểthực hiện điều đó, các ngân hàng đã sửdụng nhiều biện
pháp, nhằ m vào nhiều nhóm khách hàng. Sựra đời và phát triển của các Tổng
Công ty Nhà nước theo các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/4/1994 ở
nước ta cũng đã được các NHTM tập trung khai thác nhằm vào mục tiêu trên.
Là những doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, hoạt động theomô hình mới,
các Tổng Công ty Nhà nước có những lợi thếcăn bản với tưcách là khách
hàng của một ngân hàng. Mởrộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
không chỉcó ý nghĩa với việc kinh doanh của ngân hàng, nó còn giúp các
Tổng Công ty mau chóng ổn định, phát triển sản xuất -kinh doanh, góp phần
thực hiện chiến lược phát triển kinh tếchung. Tuy vậy, điều này hoàn toàn
không đơn giản, bởi ngân hàng phải kết hợp giữa mởrộng với nâng cao hiệu
quảcho vay trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hơn nữa, các
Tổng Công ty Nhà nước được thành lập hướng tới mô hình tập đoàn kinh tế ở
nước ta trong những điều kiện riêng và có những đặc điểm riêng, do đó đểmở
rộng cho vay các Tổng Công ty cần phải có những giải pháp phù hợp.
109 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2000 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các tổng công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………
Luận văn
Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty
Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
98
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
2
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Mở rộng cho vay, tăng dư nợ lành mạnh và nâng cao thu nhập ngân
hàng luôn là một trong những mục tiêu dài hạn của một ngân hàng thương
mại (NHTM). Để thực hiện điều đó, các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện
pháp, nhằm vào nhiều nhóm khách hàng. Sự ra đời và phát triển của các Tổng
Công ty Nhà nước theo các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/4/1994 ở
nước ta cũng đã được các NHTM tập trung khai thác nhằm vào mục tiêu trên.
Là những doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, hoạt động theo mô hình mới,
các Tổng Công ty Nhà nước có những lợi thế căn bản với tư cách là khách
hàng của một ngân hàng. Mở rộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
không chỉ có ý nghĩa với việc kinh doanh của ngân hàng, nó còn giúp các
Tổng Công ty mau chóng ổn định, phát triển sản xuất - kinh doanh, góp phần
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế chung. Tuy vậy, điều này hoàn toàn
không đơn giản, bởi ngân hàng phải kết hợp giữa mở rộng với nâng cao hiệu
quả cho vay trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hơn nữa, các
Tổng Công ty Nhà nước được thành lập hướng tới mô hình tập đoàn kinh tế ở
nước ta trong những điều kiện riêng và có những đặc điểm riêng, do đó để mở
rộng cho vay các Tổng Công ty cần phải có những giải pháp phù hợp.
Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt
Nam, thực hiện kết hợp lý thuyết với thực tiễn, em chọn đề tài “Giải pháp
nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm đề tài Khoá luận Tốt
nghiệp của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU KHÓA LUẬN.
Khoá luận đi từ những nội dung mang tính lý luận trong hoạt động cho
vay đối với các Tổng Công ty Nhà nước của một NHTM, tới các vấn đề thực
tiễn trong hoạt động này đối với Sở giao dịch I từ đó đưa ra những giải pháp,
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
3
kiến nghị cụ thể nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các Tổng Công ty
Nhà nước tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề liên quan tới hoạt
động cho vay của ngân hàng đối với các Tổng Công ty Nhà nước, những vấn
đề trong việc thực hiện cơ chế chính sách đối với hoạt động cho vay các Tổng
Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam,
thời gian từ năm 1999 đến 2001 và 6 tháng đầu năm 2002.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sự,
phương pháp hệ thống, so sánh - thống kê, phân tích kinh tế để nghiên cứu
các vấn đề đã nêu ra.
V. KẾT CẤU KHÓA LUẬN.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty Nhà nước ở Việt
Nam.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại
Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
4
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VỚI CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC
I - HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động cho vay của các NHTM:
1. 1. Khái niệm:
Theo nghĩa thông thường, cho vay là việc chuyển giao một số tiền hay
tài sản nhất định cho người khác sử dụng với điều kiện có hoàn trả lại. Khái
niệm phổ biến này được dùng rộng rãi trong đời sống thường ngày, từ những
món tiền hay tài sản có giá trị lớn cho tới những món tiền lớn hay đồ vật có
giá trị nhỏ. Với khái niệm này, hoạt động cho vay hay quan hệ vay mượn nói
chung có 2 đặc điểm chính là:
- Thứ nhất, trong quan hệ ấy, chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng (tiền,
tài sản) mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hay số tiền đó.
- Thứ hai, người cho vay được hoàn trả lại sau một thời gian nhất định
theo sự thoả thuận giữa hai bên: người cho vay và người đi vay.
Người cho vay có nhận được một khoản lãi nào hay không cũng phụ
thuộc vào sự thoả thuận này, và trong đời sống thường ngày không phải bao
giờ người cho vay cũng lấy lãi.
Còn đối với các NHTM hay là các tổ chức tín dụng nói chung thì cho
vay là một nội dung nghiệp vụ. Đó là việc NHTM giao cho khách hàng một
khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định với điều kiện là họ phải
hoàn trả lại cùng với một khoản tiền vượt trội đóng vai trò là tiền lãi. Với một
khoản vay mượn thông thường, người cho vay có thể không đòi hỏi một
khoản lãi nào, điều này có thể xuất phát từ những mối quan hệ cá nhân, hoặc
người cho vay không phải là người kinh doanh tiền... Song đối với các
NHTM, bao giờ họ cũng phải thu lãi, ít nhất là phải đủ để trả lãi cho người
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
5
gửi tiền vào ngân hàng, bởi vì họ cũng là những người kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận.
Ở Việt Nam, theo Quy chế cho vay ban hành kèm Quyết định
324/1998/ QĐ - NHNN1, thì Cho vay là một hình thức cung cấp tín dụng,
theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng vốn cho các đơn vị,
tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu cần được bổ sung vốn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, hoạt động cho vay của NHTM
đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản
xuất xã hội. Quá trình tái sản xuất xã hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng
tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong khi các tổ chức cá nhân
khác lại thiếu vốn và có nhu cầu về vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu
ở tất cả các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến
hành liên tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ
có ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết
mâu thuẫn này thông qua hoạt động cho vay của mình.
Ta cũng cần phân biệt giữa cho vay và cấp tín dụng: một ngân hàng có
thể cấp cho khách hàng các khoản tín dụng bằng các nghiệp vụ cho vay, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, tín dụng chứng từ... Cho vay chỉ là một
hình thức cấp tín dụng, song nó lại là một hình thức chủ yếu và quan trọng
nhất của các NHTM.
1.2. Đặc trưng:
Hoạt động cho vay của các NHTM có các đặc trưng sau:
- NHTM chuyển giao quyền sử dụng cho người đi vay một khoản tiền nhất
định.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
6
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời, trong một thời gian nhất định,
sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
NHTM.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức còn gọi là tiền lãi.
Tóm lại, hoạt động cho vay của NHTM mang những đặc trưng cụ thể
là: Tính thời hạn, tính hoàn trả và lòng tin người vay sẽ sử dụng vốn có hiệu
quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
2. Nội dung chủ yếu trong quy trình cho vay của các NHTM:
2.1. Tìm kiếm và thẩm định:
Các ngân hàng có thể có được yêu cầu vay vốn do khách hàng đưa tới
hoặc ngân hàng chủ động tìm đến với các khách hàng có nhu cầu vay vốn để
đề nghị phục vụ. Khi đã có yêu cầu xin vay vốn, điều đầu tiên cán bộ tín dụng
(CBTD) phải làm là hướng dẫn khách hàng về thủ tục và điều kiện được xin
vay vốn. Nếu khách hàng đã nhất trí với các điều kiện và thủ tục ấy thì CBTD
hướng dẫn họ lập hồ sơ vay vốn để ngân hàng chính thức nghiên cứu, thẩm
định. Mục đích của thẩm định tín dụng là xác định khả năng và ý muốn của
người vay trong việc hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản của hợp
đồng tín dụng, nói cách khác là ước lượng rủi ro không hoàn trả. Từ đó đưa ra
quyết định cho vay hay không, và nếu cho vay thì cho vay bao nhiêu? Với kỳ
hạn, lãi suất và phương thức cho vay nào?… Khi tiến hành thẩm định, ngân
hàng phải trả lời cho hai loại câu hỏi lớn là phải thẩm định cái gì (thẩm định
các yếu tố nào) và các nguồn thông tin lấy từ đâu. Chúng ta sẽ đi vào xem xét
cách trả lời với mỗi loại câu hỏi trên.
Trả lời câu hỏi thẩm định cái gì ? Các ngân hàng lại thường chia ra
thành thẩm định các yếu tố về bản thân khách hàng và thẩm định về phương
án, dự án xin vay vốn.
a/ Các yếu tố về bản thân khách hàng:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
7
Năng lực vay nợ: Các ngân hàng quan tâm trước tiên đến năng lực pháp
lý và năng lực hành vi dân sự của khách hàng. Là khách hàng, cá nhân họ
phải là những công dân đến tuổi trưởng thành (theo luật Việt Nam là 18 tuổi
trở lên), nếu không họ phải được cha mẹ hay người giám hộ bảo lãnh và cùng
ký vào đơn xin vay tiền. Đối với các tổ chức kinh tế (TCKT), ngân hàng xét
xem nó có đủ tư cách pháp nhân không, các giấy tờ xác minh tư cách ấy, tính
độc lập và tự chịu trách nhiệm trong việc đưa ra các quyết định của các TCKT
đó như thế nào? Ai là người có thẩm quyền đại diện cho công ty trong quan
hệ vay mượn? Đây là những yếu tố mà bắt buộc ngân hàng phải xem xét.
Uy tín của khách hàng: Uy tín ở đây không chỉ trong quan hệ của khách
hàng với ngân hàng, mà còn trong các quan hệ tín dụng cũng như kinh tế với
các ngân hàng và đối tác khác. Lịch sử các mối quan hệ này của khách hàng
trong đó có việc thực hiện các hợp đồng tín dụng thường rất có giá trị khi
đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên không phải lúc nào ngân hàng cũng nắm
được rõ ràng các yếu tố này mà còn phải phán đoán sự sẵn lòng trả nợ cũng
như sự cố gắng thực hiện hợp đồng tín dụng.
Năng lực tài chính của khách hàng: Ở đây, các NHTM sẽ xác định vốn
kinh doanh của doanh nghiệp xin vay, và họ sẽ không bao giờ cấp một món
vay nào cho doanh nghiệp nếu không được đảm bảo bằng vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh là một trong những tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính
của khách hàng, và cũng là một yếu tố quyết định tới khối lượng tín dụng mà
ngân hàng sẵn lòng cung cấp. Các ngân hàng còn phải xem xét khả năng độc
lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của
người vay. Điều này được thực hiện thông qua phân tích các chỉ tiêu đặc
trưng tài chính của doanh nghiệp như tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ thanh toán
hiện hành, vốn lưu động thực tế chủ sở hữu, vòng quay vốn lưu động, hệ số
tài trợ trong tổng tài sản… Bên cạnh đó, năng lực tài chính của doanh nghiệp,
trong đó có yếu tố lợi nhuận, chịu tác động của nhiều yếu tố nội tại của doanh
nghiệp ấy, đó là khả năng quản lý, khả năng kỹ thuật - công nghệ, sức cạnh
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
8
tranh. Đây cũng là những đối tượng trong thẩm định của ngân hàng, và tất
nhiên họ sẽ đánh giá cao các doanh nghiệp có hệ thống quản lý có hiệu lực,
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh tốt trên thị trường.
Thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có): Về nguyên tắc, những tài
sản đem cầm cố, thế chấp phải thuộc quyền sở hữu của người vay, và người
vay phải chứng minh được điều đó trước ngân hàng bằng những tài liệu hợp
pháp. Không chỉ như vậy, CBTD còn phải thẩm định giá trị những tài sản ấy
một cách chính xác theo giá cả thị trường hiện tại và giá trị thanh lý (thường
thấp hơn nhiều giá cả thị trường hiện tại) trong trường hợp người vay không
trả nợ hoặc có sự biến động về giá cả của những tài sản đó.
Bên cạnh đó, các điều kiện kinh tế tuy không phải là yếu tố thuộc về
bản thân khách hàng nhưng nó lại tác động tới khả năng trả nợ, tới phương án,
dự án sử dụng vốn vay của khách hàng với vai trò là môi trường hoạt động
của cả các doanh nghiệp và ngân hàng. CBTD sẽ phải liên tục tổng hợp và
phân tích các thông tin về nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, như tỷ lệ
lạm phát, thất nghiệp, lãi suất chiết khấu của NHTW, cân đối ngân sách, cân
đối thanh toán và tỷ giá hối đoái và phân tích được các thông tin về lĩnh vực
hoạt động của khách hàng.
b/ Về thẩm đinh phương án, dự án xin vay:
Trước hết, ngân hàng phải xem xem phương án sử dụng vốn vay có phù
hợp với kế hoạch SXKD, với điều kiện thị trường hay không; các điều kiện để
thực hiện thành công phương án, các định mức kinh tế - kỹ thuật, các số liệu
về thu nhập và chi phí cũng như lợi nhuận dự kiến có hợp lý không? Điều này
xuất phát từ mối quan hệ tay ba ngân hàng - doanh nghiệp - thị trường.
Đối với những yêu cầu xin vay vốn ngắn hạn bổ sung cho vốn lưu
động, nguồn trả nợ trực tiếp nhất là doanh thu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ hình
thành từ nguồn vốn vay. Ngân hàng thường thiết lập mối tương quan giữa
khoản tiền xin vay với doanh thu theo kế hoạch và doanh thu thực hiện của
phương án SXKD. Tại thời điểm xem xét, doanh thu thực hiện chưa xuất
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
9
hiện, nhưng ngân hàng lại phải dự đoán được do nó phụ thuộc trực tiếp vào
tiêu thụ, tức là nhu cầu thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp
với các yếu tố đã phân tích về bản thân khách hàng, ngân hàng sẽ rút ra kết
luận về số tiền có thể chấp nhận cho vay trong tổng doanh thu đó. Một vấn đề
có tính nguyên tắc là chỉ những phương án với hiệu quả được tính trong
khoảng thời gian một chu kỳ sản xuất hoặc năm dương lịch mới là đối tượng
của cho vay vốn lưu động.
Đối với các dự án xin vay vốn trung, dài hạn thì việc thẩm định sẽ phức
tạp hơn, bởi các khoản cho vay này chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Các ngân
hàng thường thẩm định dự án từ nhiều phương diện: kỹ thuật, thị trường và tài
chính của dự án, từ đó khẳng định tính khả thi kinh tế - kỹ thuật của dự án,
xác định được thời điểm thực hiện dự án, lịch trình giải ngân, trả nợ được trù
tính trong dự án, từ đó mà quyết định cho vay hay từ chối. Trước tiên, ngân
hàng thẩm định về thị trường sản phẩm, dịch vụ và sản phẩm dịch vụ sẽ cung
cấp như đối với cho vay ngắn hạn. Thẩm định kỹ thuật dự án cũng quan hệ
chặt chẽ tới phương diện thị trường của dự án. Ở đây, ngân hàng quan tâm tới
qui mô của dự án, xem có phù hợp vói khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng
cung cấp nguyên vật liệu và năng lực quản lý của doanh nghiệp không? Tiếp
đó ngân hàng xem xét tới công nghệ và trang thiết bị, đây cũng là căn cứ xác
định chu kỳ sống của sản phẩm, một yếu tố có ý nghĩa khi xem xét đầu tư.
Việc thẩm định kỹ thuật có thể được thực hiện bởi các bộ phận chuyên trách
hoặc do CBTD tự phụ trách. Tuy nhiên có nhiều trường hợp do trình độ
chuyên môn hoá của CBTD còn thấp hoặc tính phức tạp của dự án ngân hàng
phải thuê các chuyên gia tư vấn.
Về phương diện tài chính, ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp
khác nhau, sử dụng các loại chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án như
giá trị hiện tại (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn, tỷ
suất lợi ích trên chi phí (B/C)… Khi thẩm định dự án đầu tư để cho vay trung,
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
10
dài hạn, ngân hàng thường vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp trong đó
coi mỗi chỉ tiêu là một con số thể hiện một mặt của dự án.
Trả lời câu hỏi các nguồn thông tin lấy từ đâu? Ngân hàng có thể
thu thập thông tin từ các nguồn:
+ Thông qua phỏng vấn trực tiếp người xin vay, CBTD có thể đánh giá
được phần nào năng lực, tư cách đạo đức của khách hàng, cũng như để giải
thích những điều chưa rõ trong hồ sơ tín dụng.
+ Nguồn thứ hai là hệ thống sổ sách của ngân hàng để biết thêm về uy
tín của khách hàng trong việc hoàn trả các món vay, số dư trên các tài khoản,
tình hình thanh toán công nợ...
+ Các nguồn thông tin bên ngoài, như ngân hàng thuê các Công ty
chuyên nghiệp điều tra thu thập thông tin về khách hàng, hay nhờ các ngân
hàng bạn hay bạn hàng của khách hàng để xác định uy tín của anh ta. Một số
nước còn có hệ thống thông tin tín dụng chung do ngân hàng Trung ương hay
hiệp hội các ngân hàng điều hành (CIC ở Việt Nam là một ví dụ về hình thức
này).
+ Thông qua các chuyến viếng thăm khách hàng, CBTD có thể thu thập
những thông tin rất khách quan về tình hình hoạt động của họ.
+ Những thông tin do khách hàng cung cấp từ các hồ sơ vay vốn và sổ
sách kế toán. Đây là nguồn thông tin chính thức mà khách hàng phải trình lên
ngân hàng khi xin vay.
Ở một ngân hàng thường có sự phân cấp uỷ quyền trong việc quyết
định cho vay. Điều này càng thấy rõ ở mức phán quyết mà chi nhánh của
NHTM (ở ngân hàng có chi nhánh) có thể quyết định cho vay. Nhiều khi một
hội đồng gồm nhiều thành viên được thành lập để thẩm định và quyết định
cho vay đối với các dự án lớn, có tính phức tạp cao.
2.2. Giải ngân, quản lý món vay và thu nợ:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
11
Mục đích của khâu này là phát tiền vay đúng tiến độ, đúng đối tượng,
kiểm soát và quản lý chặt chẽ món vay để đảm bảo khách hàng sử dụng vốn
vay đúng mục đích, thực hiện được kế hoạch trả nợ, đồng thời có thể phát
hiện sớm nhất những khó khăn phát sinh để có biện pháp xử lý nhằm hạn chế
tới mức thấp nhất rủi ro đối với ngân hàng. Các công việc cụ thể là:
Khi phát tiền vay, CBTD tuân thủ nguyên tắc phải có vật tư, tài sản
tương đương là đối tượng ghi trong hợp đồng tín dụng kết hợp với các
phương thức thanh toán, ngân hàng có thể thanh toán trực tiếp với người cung
cấp của khách hàng mà không qua trung gian.
Sau khi phát tiền vay, CBTD vẫn thường xuyên quản lý kiểm tra việc
sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngoài việc liên tục theo dõi sự vận động
của vốn, ngân hàng còn chú ý cả tới tình hình kinh doanh chung của khách
hàng và tình hình thị trường giá cả... Phát hiện sớm nhất những dấu hiệu của
khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng có thể có biện pháp thích hợp. Ngân
hàng có thể thu hồi khoản vay trước hạn, nếu khách hàng sử dụng vốn sai
mục đích. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu thêm tài sản thế chấp, cầm cố khi
giá trị thị trường của các tài sản này giảm ngoài dự kiến... Đối với những khó
khăn mang tính khách quan, ngân hàng sẽ cùng khách hàng giải quyết, giúp
doanh nghiệp thu hồi các hoá đơn chậm trả, thanh toán hàng tồn kho hay giảm
bớt dự trữ quá mức; sắp xếp, cấu trúc lại các khoản vay bằng định lại kỳ hạn
nợ hay rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian... Để việc thu nợ diễn
ra thuận lợi, CBTD có các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc; định kỳ tổng kết
việc thực hiện kế hoạch trả nợ của khách hàng.
2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ khách hàng:
Sau khi thu nợ đầy đủ hoặc giải quyết các tồn tại về khoản vay, ngân
hàng và khách hàng tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng. Ngân hàng tổng
kết, đánh giá toàn bộ quá trình cho vay, rút ra kinh nghiệm, bài học cần thiết,
đồng thời đưa ra các yêu cầu mới. Ngân hàng tiến hành lưu trữ hồ sơ khách
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
12
hàng dù họ còn quan hệ với ngân hàng nữa hay không. Nhiều NHTM ở các
nước tiên tiến có hẳn bộ phận chuyên trách, và công việc này được thực hiện
bằng nhiều phương tiện hiện đại như máy tính, các phần mềm quản lý khách
hàng. Ở nước ta, công việc này do mỗi CBTD đảm nhận, đưa vào phòng quản
lý khách hàng; các lưu trữ vẫn chủ yếu dưới dạng hồ sơ giấy tờ.
3. Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM:
Khối lượng cho vay biểu hiện ở hai mặt:
- Mặt tuyệt đối biểu hiện ở số dư tuyệt đối của khoản mục trong nghiệp
vụ tài sản có ngân hàng và một phần dịch vụ ngoại bảng cân đối kế toán.
- Mặt tương đối biểu hiện ở tỷ trọng số dư của các kh