Từxa xưa việc giao lưu buôn bán giữa các quốc gia, mà sau này được
gọi là hoạt động ngoại thương, đã gắn liền với sựtồn tại vàphát triển của
loài người. Hoạt động ngoại thương mởrộng khảnăng tiêu dùng của một
nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cảcác mặt hàng với sốlượng
nhiều hơn mức có thểtiêu dùng với ranh giới của khảnăng sản xuất trong
nước đó nếu thực hiện chế độtựcung tựcấp không buôn bán. Hơn thếnữa,
thông qua ngoại thương một quốc gia có thểtiêu dùng tất cảcác mặt hàng
mình mong muốn mà không cần phải sản xuất mặt hàng đó. Chính vì vậy,
ngoại thương giữvai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó thúc đẩy
sựphát triển nền kinh tếcủa các quốc gia nói riêng và nền kinh tếthếgiới
nói chung.
Cùng với quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ
trên khắp thếgiới, Việt nam cũng đang trên đà hội nhập kinh tếtheo hướng
đa dạng hoá, đa phương hoá theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Hoạt
động ngoại thương của nước ta cũng vì thếmà ngày càng phát triển, đem lại
những lợi ích to lớn cho nền kinh tếnước nhà. Hoạt động buôn bán quốc tế
được tiến hành thông qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng trong ngoại
thương. Khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên đều muốn tốt đẹp nhưng do
những khác biệt vềngôn ngữ, văn hoá, luật pháp nên tranh chấp là khó
tránh khỏi. Việc giải quyết có hiệu quảcác tranh chấp phát sinh luôn là vấn
đề được các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu quan tâm.
99 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2404 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại công ty dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………
Luận văn
Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực
tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa việc giao lưu buôn bán giữa các quốc gia, mà sau này được
gọi là hoạt động ngoại thương, đã gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
loài người. Hoạt động ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng của một
nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng
nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong
nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. Hơn thế nữa,
thông qua ngoại thương một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng
mình mong muốn mà không cần phải sản xuất mặt hàng đó. Chính vì vậy,
ngoại thương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế của các quốc gia nói riêng và nền kinh tế thế giới
nói chung.
Cùng với quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ
trên khắp thế giới, Việt nam cũng đang trên đà hội nhập kinh tế theo hướng
đa dạng hoá, đa phương hoá theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Hoạt
động ngoại thương của nước ta cũng vì thế mà ngày càng phát triển, đem lại
những lợi ích to lớn cho nền kinh tế nước nhà. Hoạt động buôn bán quốc tế
được tiến hành thông qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng trong ngoại
thương. Khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên đều muốn tốt đẹp nhưng do
những khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp…nên tranh chấp là khó
tránh khỏi. Việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh luôn là vấn
đề được các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu quan tâm.
3
Với mong muốn giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu và bạn
đọc quan tâm có thêm tài liệu tham khảo về các phương pháp giải quyết
tranh chấp trong ngoại thương cả trên lý thuyết và thực tế, tìm hiểu một số
biện pháp nhằm giúp cho việc giải quyết tranh chấp trong ngoại thương đạt
hiệu quả cao để từ đó rút ra kinh nghiệm cho riêng mình, tôi chọn đề tài:
“Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh
chấp tại Công ty dệt may Hà nội” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt
nghiệp đại học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khoá luận trước tiên nhằm nghiên cứu một cách tương đối bao quát
các tranh chấp trong ngoại thương và các phương pháp giải quyết
tranh chấp.
- Tiếp đó, khoá luận tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp trong
ngoại thương tại một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, cụ
thể là Công ty dệt may Hà nội.
- Sau khi nghiên cứu lý thuyết và tìm hiểu thực tiễn, khoá luận đề
xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
trong ngoại thương nói chung và ở Công ty dệt may Hà nội nói
riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là các phương pháp giải quyết
tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn ứng dụng các phương pháp này
tại một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Cụ thể, khoá luận nghiên
cứu cách thức áp dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp trong ngoại
4
thương và việc áp dụng như thế nào để đem lại hiệu quả cao, từ đó rút ra
phương pháp giải quyết phù hợp cho mỗi một tranh chấp thực tế xảy ra.
Phạm vi khoá luận giới hạn chỉ ở việc nghiên cứu và phân tích các
tranh chấp trong ngoại thương phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế của Công ty dệt may Hà nội trong thời gian vừa qua.
4. Bố cục khoá luận
Khoá luận được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương I : Một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp trong ngoại
thương.
Chương II : Thực trạng giải quyết tranh chấp trong ngoại thương tại
Công ty dệt may Hà nội.
Chương III : Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp trong ngoại thương ở Công ty dệt may Hà nội trong thời gian tới.
Mặc dù đã được các thầy cô nhiệt tình hướng dẫn trong quá trình làm
khoá luận, cùng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và kiến thức đã được
học, nhưng do hạn chế về thời gian, tài liệu và kinh nghiệm nên khoá luận
khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp từ các độc giả có quan tâm để giúp cho việc tiếp tục nghiên cứu
sau này được tốt hơn.
5
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG
I/ TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ
1. Nhận xét chung về tranh chấp và tranh chấp trong ngoại thương
Tranh chấp là những xung đột phát sinh từ những mâu thuẫn xảy ra
trong đời sống xã hội.
Trong cuộc sống hàng ngày tranh chấp thường xuyên xảy ra, từ những
mâu thuẫn nhỏ mà các bên có thể tự giải quyết được với nhau đến những
mâu thuẫn lớn phải nhờ đến sự giải quyết của cơ quan có thẩm quyền. Tranh
chấp có thể nảy sinh từ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực
thương mại nói chung hay lĩnh vực ngoại thương nói riêng là một trong
những lĩnh vực hay xảy ra tranh chấp nhất và việc giải quyết các tranh chấp
này thường là khó khăn, phức tạp hơn so với các lĩnh vực khác.
Tranh chấp trong ngoại thương là mọi tranh chấp, xung đột phát sinh
giữa các bên trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng trong ngoại thương.
Tranh chấp trong ngoại thương trước hết phát sinh trong quá trình đàm
phán, ký kết hợp đồng ngoại thương. Trong quá trình này các tranh chấp
6
phát sinh chủ yếu là do các bên có cách hiểu, cách quan niệm khác nhau về
khía cạnh pháp lý của việc hình thành một hợp đồng. Hợp đồng trong ngoại
thương mang “tính chất quốc tế” nên nó chịu sự điều chỉnh và chi phối của
rất nhiều nguồn luật: điều ước quốc tế, luật quốc gia, tập quán quốc tế,... Các
nguồn luật khác nhau thường có các qui định không giống nhau về chủ thể
ký kết hợp đồng, hình thức của hợp đồng, trình tự ký kết hợp đồng, nội dung
hợp đồng,…dẫn đến sự hiểu lầm, bất đồng và tranh chấp, làm phát sinh
những xung đột về mặt pháp lý. Ví dụ, Luật Thương mại Việt nam 1997
Điều 49 qui định hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật
qui định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo qui định đó, trong
khi đó luật của Pháp cho phép ký kết hợp đồng bằng miệng. Hay như về nội
dung của hợp đồng thì Luật Thương mại Việt nam 1997 qui định các điều
khoản về tên hàng, số lượng, qui cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh
toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng là các điều khoản chủ yếu của hợp
đồng mua bán hàng hoá. Theo luật Pháp thì điều khoản chủ yếu chỉ bao gồm
tên hàng, số lượng, qui cách chất lượng, giá cả và phương thức thanh
toán.v.v…
Bên cạnh đó, tranh chấp trong ngoại thương còn phát sinh trong quá
trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng sau khi được ký kết là cơ
sở pháp lý qui định quyền và nghĩa vụ của các bên. Bản chất của hợp đồng
là đem lại lợi ích cho tất cả các chủ thể tham gia. Song quyền lợi của các bên
chỉ được đảm bảo trong chừng mực mà nghĩa vụ của các bên qui định trong
hợp đồng phải được thực hiện đầy đủ và chính xác. Tuy quan hệ hợp đồng là
quan hệ “hai bên cùng có lợi” nhưng do quyền lợi của các bên lại khác nhau
nên việc một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình tất yếu làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia. Khi
quyền lợi của các bên không được đảm bảo thì tranh chấp phát sinh là điều
7
không thể tránh khỏi. Ví dụ, trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương, khi người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng hay người mua vi
phạm nghĩa vụ trả tiền hàng thì đều ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia và
dẫn đến tranh chấp xảy ra. Như vậy, sự khác nhau về quyền lợi của các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh
chấp.
2. Đặc điểm của tranh chấp trong ngoại thương
Vì tranh chấp trong ngoại thương cũng là một tranh chấp nên tranh
chấp trong ngoại thương có những đặc điểm của một tranh chấp thông
thường. Tranh chấp trong ngoại thương cũng có ít nhất là hai bên tranh chấp,
có đối tượng tranh chấp, có nội dung tranh chấp, tranh chấp có thể được giải
quyết giữa các bên với nhau hoặc do một cơ quan có thẩm quyền giải
quyết…
Bên cạnh đó, tranh chấp trong ngoại thương còn mang một số đặc điểm
của hợp đồng mua bán ngoại thương do chúng cùng liên quan và có ảnh
hưởng quan trọng đến hoạt động ngoại thương. Các đặc điểm đó như sau:
Thứ nhất, tranh chấp trong ngoại thương có yếu tố quốc tế. Yếu tố quốc
tế của tranh chấp trong ngoại thương thể hiện ở chỗ các bên tranh chấp có
trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
Thứ hai, tranh chấp trong ngoại thương mang tính thương mại. Tất cả
các tranh chấp trong ngoại thương đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
đến hoạt động buôn bán, cụ thể là hoạt động buôn bán với nước ngoài.
Thứ ba, cơ quan giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là toà án hay
trọng tài của một nước nào đó được coi là toà án hay trọng tài nước ngoài.
Thứ tư, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là luật
nước ngoài đối với ít nhất là một trong các bên hoặc với tất cả các bên.
8
Thứ năm, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp trong ngoại thương rất
đa dạng và phức tạp: luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán quốc tế và các án
lệ. Các bên có thể thoả thuận lựa chọn nguồn luật thích hợp để áp dụng trong
việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng ngoại thương hoặc thoả thuận sau
khi ký kết hợp đồng. Việc áp dụng nguồn luật nào cũng có thể do pháp luật
qui định.
II/ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG
1. Nhận xét chung
Bất kỳ một hợp đồng nào trong lĩnh vực ngoại thương nếu được các bên
đương sự thực hiện đúng thì không xảy ra tranh chấp và do đó cũng không
cần việc giải quyết tranh chấp. Nhưng trong thực tế sự tranh chấp gần như là
một người bạn đồng hành với hoạt động ngoại thương. Khi tham gia vào hợp
đồng mua bán ngoại thương các bên đều không muốn tranh chấp phát sinh,
nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà tiêu biểu
nhất là sự đối lập quyền lợi giữa các bên, tranh chấp vẫn thường xảy ra. Có
tranh chấp phát sinh cũng có nghĩa là tranh chấp đó phải được giải quyết
thoả đáng. Như vậy, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là khâu
cuối cùng không thể thiếu được của cả một quá trình ký kết và thực hiện hợp
đồng trong ngoại thương.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong ngoại thương thường được tiến hành theo hai phương pháp và
cũng là hai giai đoạn, đó là khiếu nại và đi kiện.
Khiếu nại là biện pháp thường được sử dụng trước tiên đem lại hiệu quả
cao đồng thời tạo thuận lợi cho các bên trong việc giải quyết tranh chấp. Khi
9
tranh chấp không thể giải quyết được bằng khiếu nại, bên bị vi phạm mới
nên đi kiện. Việc đi kiện có thể đưa ra toà án hoặc trọng tài tuỳ theo qui định
trong hợp đồng, theo luật định hay theo sự thoả thuận của hai bên. Biện pháp
này có hiệu lực thi hành cao hơn nhưng lại tốn kém thời gian, tiền bạc và dễ
làm xấu đi mối quan hệ buôn bán của các bên. Tuy nhiên, nhiều khi để bảo
vệ quyền lợi của mình, việc đi kiện với bên bị vi phạm là cần thiết.
2. Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng khiếu nại và đặc
điểm
2.1. Khái niệm
Khiếu nại là việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên có liên
quan bằng con đường thương lượng và đàm phán trực tiếp giữa hai bên và
nếu thương lượng có kết quả thì tranh chấp được giải quyết tốt đẹp.
Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp
đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, khiếu nại là bắt buộc nếu điều đó
được qui định cụ thể trong hợp đồng hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng.
Khi hợp đồng hoặc luật áp dụng cho hợp đồng không có qui định gì về khiếu
nại thì khiếu nại không phải là bắt buộc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể
bỏ qua bước khiếu nại mà đi kiện ngay.
Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng
đường biển thì điều ước quốc tế và luật liên quan của các nước không qui
định bắt buộc phải khiếu nại rồi mới đi kiện, mà có thể đi kiện ngay ra toà án
hoặc trọng tài thương mại. Tuy vậy, trong thực tế các bên đương sự thường
tiến hành khiếu nại nhau trước, rồi sau đó mới đi kiện nếu như khiếu nại
không được thoả mãn. Sở dĩ trước hết cần phải tiến hành khiếu nại chứ chưa
đi kiện ngay vì các bên đương sự là những người hiểu rõ tranh chấp cho nên
10
dễ dàng nhân nhượng với nhau, rút ngắn được thời gian giải quyết tranh
chấp, không bị đọng vốn và lệ phí giải quyết tranh chấp đỡ tốn kém.
Mặc dù khiếu nại có thể là bắt buộc hoặc không bắt buộc tuỳ theo qui
định trong hợp đồng hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng và khi hợp đồng
hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng không có qui định gì về khiếu nại thì
khiếu nại không phải là bắt buộc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể bỏ qua
bước khiếu nại mà đi kiện ngay, nhưng trước tiên các bên tranh chấp nên
giải quyết tranh chấp phát sinh trong ngoại thương bằng khiếu nại. Luật
pháp nhiều nước qui định khiếu nại là phương thức bắt buộc đầu tiên để giải
quyết tranh chấp. Cụ thể, khoản 1 điều 239 Luật thương mại Việt nam 1997
đã qui định : “Tranh chấp thương mại trước hết phải được giải quyết thông
qua thương lượng giữa các bên”. Khi đó, khiếu nại là cơ sở pháp lý để giải
quyết tranh chấp ở các mức cao hơn là Toà án và Trọng tài.
Khiếu nại là một khâu rất quan trọng trong hoạt động ngoại thương cho
nên người làm công tác xuất nhập khẩu cần nắm vững kiến thức về nghiệp
vụ ngoại thương cũng như kiến thức pháp lý về khiếu nại.
Trong hoạt động thương mại và hàng hải quốc tế, khiếu nại liên quan
đến nhiều bên như người bán, người mua, người chuyên chở, người thuê
chở, người gửi hàng, người nhận hàng, người uỷ thác, người nhận uỷ thác,
người bảo hiểm v.v… Song khiếu nại người bán hàng, người chuyên chở
hàng hoá bằng đường biển, người bảo hiểm hàng hoá là những trường hợp
hay xảy ra nhất.
2.2. Đặc điểm
Để có thể tiến hành giải quyết thành công tranh chấp trong ngoại thương
bằng phương pháp khiếu nại các bên cần tuân thủ chặt chẽ thời hạn khiếu nại
và thủ tục khiếu nại.
11
a) Thời hạn khiếu nại
Thời hạn khiếu nại là một khoảng thời gian nhất định cho phép các bên
tiến hành giải quyết tranh chấp với nhau bằng con đường khiếu nại.
Thời hạn khiếu nại được chia làm hai loại: thời hạn khiếu nại theo luật
định và thời hạn khiếu nại qui ước.
Thời hạn khiếu nại theo luật định là thời hạn khiếu nại được qui định
trong luật mà các bên đương sự phải tuân theo, không được làm khác đi.
Thời hạn khiếu nại được qui định trong điều ước quốc tế về hợp đồng mua
bán ngoại thương là thời hạn khiếu nại luật định. Ví dụ, Điều 49 Công ước
La Hay 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình qui định thời hạn
khiếu nại về phẩm chất hàng hoá là 1 năm kể từ lúc người mua thông báo
cho người bán biết về hàng không phù hợp. Hay như Điều 39 Công ước
Viên của Liên hợp quốc về mua bán quốc tế hàng hoá thời hạn khiếu nại về
hàng không phù hợp là 2 năm kể từ ngày hàng đã thực sự được giao cho
người mua.
Thời hạn khiếu nại qui ước là thời hạn khiếu nại do các bên qui định
trong hợp đồng. Việc qui định thời hạn khiếu nại ngắn hay dài do các bên tự
thoả thuận quyết định. Thông thường, thời hạn khiếu nại qui ước ngắn hơn
thời hạn khiếu nại luật định, thậm chí là rất ngắn. Chẳng hạn, hợp đồng mẫu
của tập đoàn mua bán gỗ thông Bắc Âu qui định thời hạn khiếu nại chỉ là 7
ngày.
Luật Thương mại Việt nam 1997 đề cập đến cả thời hạn khiếu nại luật
định và thời hạn khiếu nại qui ước. Điều 241 khoản 2 Luật Thương mại Việt
nam qui định thời hạn khiếu nại do các bên thoả thuận trong hợp đồng, trong
trường hợp không có thoả thuận thì thời hạn khiếu nại được qui định như
sau:
12
- Ba tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hoá;
- Sáu tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về qui cách, chất
lượng hàng hoá; trong trường hợp hàng hoá có bảo hành thì thời hạn
khiếu nại là ba tháng kể từ ngày hết thời hạn bảo hành;
- Ba tháng kể từ khi bên vi phạm theo hợp đồng đối với khiếu nại về các
hành vi thương mại khác.
Khi qui định thời hạn khiếu nại cần xác định vị trí của mình, có ưu thế
hay không; cần căn cứ vào tính chất, đặc điểm của hàng hoá, căn cứ vào
khoảng cách xa gần giữa người bán và người mua, mức độ hiện đại của
phương tiện giao thông,…để qui định là dài hay ngắn.
Trong trường hợp cả hợp đồng lẫn luật áp dụng cho hợp đồng đều
không qui định gì về thời hạn khiếu nại thì thông thường đó là một khoảng
thời gian hợp lý kể từ ngày bên bị vi phạm biết được hoặc đáng lẽ ra phải
biết được quyền lợi của mình bị vi phạm. Do vậy, trong trường hợp này khi
phát hiện ra quyền lợi của mình bị vi phạm, bên bị vi phạm phải nhanh
chóng lập bộ hồ sơ khiếu nại để gửi đi trong thời gian nhanh nhất và hợp lý.
Các bên tranh chấp cần phải đặc biệt chú ý tới thời hạn khiếu nại. Nếu
bên bị vi phạm bỏ lỡ thời hạn khiếu nại thì sẽ mất quyền khiếu nại và hoặc
mất quyền đi kiện, quyền thắng kiện, còn bên vi phạm có quyền bác khiếu
nại nếu thấy thời hạn khiếu nại đã hết.
Để thấy rõ tác hại của việc bỏ lỡ thời hạn khiếu nại chúng ta xem xét ví
dụ sau:
Một công ty của Việt nam mua bông của một công ty của Xuđăng.
Hợp đồng qui định một số nội dung chính như sau:
- Số lượng: 650 MT bông cấp 4 và 3249 MT bông cấp 6
- Thời hạn giao hàng: tháng 11 và 12 năm 1978
13
- Thời hạn khiếu nại: 30 ngày sau khi dỡ hàng đối với khuyết tật rõ rệt
và 90 ngàyđối với khuyết tật không rõ rệt.
Quá trình thực hiện hợp đồng diễn ra như sau:
+ Ngày 29/01/1979, tàu đến cảng Việt nam.
+ Ngày 05/02/1979, phía Việt nam yêu cầu Vinacontrol giám định hàng.
+ Ngày 24/02/1979, bên Việt nam nhận được biên bản giám định của
Vinacontrol và gửi thư nhắc nhở phía Xuđăng về phẩm chất hàng, đề
nghị tránh lặp lại chuyến sau.
+ Ngày 01/03/1979, bên Việt nam gửi thư cho phía Xuđăng tiếp tục
phàn nàn về phẩm chất hàng.
+ Ngày 12/03/1979, bên Việt nam gửi cho phía Xuđăng biên bản giám
định do Vinacontrol cấp.
+ Ngày 08/05/1979, phía Việt nam khiếu nại đòi giảm giá với số tiền là
732.250 USD.
Kết quả: phía Xuđăng từ chối đơn khiếu nại. Lý do là đối với bông các
khuyết tật về màu sắc, tạp chất, độ ẩm là khuyết tật rõ rệt. Theo như qui định
về thời hạn khiếu nại đối với khuyết tật rõ rệt trong hợp đồng thì trong vòng
30 ngày sau khi dỡ hàng (07/02/1979) người mua phải gửi cho người bán bộ
hồ sơ khiếu nại hợp lệ. Nhưng mãi đến ngày 08/05/1979, khi đã hết thời hạn
khiếu nại, người mua mới gửi đơn khiếu nại. Do đó, yêu sách của người mua
đã bị từ chối. Qua vụ việc trên ta thấy việc tuân thủ thời hạn khiếu nại là vô
cùng quan trọng. Bỏ lỡ thời hạn này, bên Việt nam đã phải gánh chịu thiệt
hại, mặc dù bên nước ngoài vi phạm điều kiện về chất lượng hàng.
b) Thủ tục khiếu nại
Việc giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng phương pháp khiếu
nại muốn đạt được hiệu quả cao thì người khiếu nại cũng phải tuân thủ thủ
14
tục khiếu nại.Thủ tục khiếu nại là bên khiếu nại phải gửi cho bên bị khiếu
nại một bộ hồ sơ khiếu nại đầy đủ và hợp lệ. Bên bị khiếu nại sẽ xem xét,
nghiên cứu rồi trả lời có thoả mãn yêu cầu của bên khiếu nại không.
Bộ hồ sơ khiếu nại mà bên khiếu nại gửi cho bên bị khiếu nại bao gồm:
đơn khiếu nại và các chứng từ kèm theo.
Đơn khiếu nại được lập bởi người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải hợp lệ.
Tính hợp lệ được thể hiện ở những điểm sau:
+ Về hình thức: Đơn khiếu nại phải được làm thành văn bản, ghi rõ tiêu
đề là “Đơn khiếu nại” và nêu rõ tên, địa chỉ đầy đủ của người khiếu nại
và người bị khiếu nại.
+ Về nội dung: Đơn khiếu nại phải nêu rõ nội dung khiếu nại, tức là
người khiếu nại khiếu nại ai (tên, địa chỉ, số tài khoản,…), khiếu nại về
vấn đề gì. Một điều quan trọng là trong đơn người khiếu nại phải nêu ra
yêu sách cụ thể đối với người bị khiếu nại. Ở đây, người khiếu nại tính
toán và phải nêu rõ các chi phí, thiệt