Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế

Trong điều kiện, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng làm nảy sinh rất nhiều vấn đề mới mẻ. Quá trình hội nhập đã, đang và sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta. Hội nhập mang đến cơ hội cho nhiều ngành công nghiệp phát triển, xuất khẩu được nhiều hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm mới, nhưng cũng gây ra thách thức cho không ít ngành của nước ta, trong đó có ngành công nghiệp giấy. Giấy là một mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đối với nhu cầu của nhân dân và công nghiệp giấy có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển sản xuất mặt hàng giấy là một trong những nhiệm vụ quantrọng trong ba chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa, học tập, sản xuất công nghiệp. Nhưng hiện đang có không ít ý kiến cho rằng, ngành công nghiệp giấy Việt Nam có năng lực cạnh tranh yếu và có thể sẽ bị hàng nước ngoài lấn áp hoàn toàn. Có thực như vậy không? Xuất phát từ ý định đưa ra một cái nhìn và một sự đánh giá tương đối tổng quát và công bằng hơn đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam trước những thách thức của quá trình hội nhập, tác giả đã thực hiện khóaluận này. Mục đích của tác giả không phải là đi sâu vào tình hình, thực trạng sản xuất, kinh doanh của ngành công nghiệp giấy Việt Nam hiện nay, mà đi vào phân tích, đánh giá thách thức, cơ hội và năng lực cạnh tranh của ngành, thông qua đó đề ra một hệ thống giải pháp ngành nên áp dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành. Khóa luận sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn giải để nêu rõ mục đích của khóa luận. Ngoài phần lời nói đầu, mục lục vàtài liệu tham khảo, kết cấu khóa luận được tác giả chia làm 3 chương: Chương I :Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế -Chương II :Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế Chương III : Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam

pdf83 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1952 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG *********** KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ. Sinh viên thực hiện: Bùi Đức Chí Toàn Lớp Nga – khóa K38 E Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Phạm Song Hạnh Hà Nội - 2003 Mục lục Nội dung Trang số Lời nói đầu Chương I Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh 3 1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 3 2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4 II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7 1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 9 III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy 16 1. Do ngành giấy là một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta 16 2. Phát triển ngành giấy là một yêu cầu đặt ra nhằm phát huy nguồn lực của đất nước, thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước 18 3. Muốn phát triển ngành giấy thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế 20 Chương II Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế I/ Tình hình hoạt động của ngành giấy Việt Nam 22 1. Những thuận lợi 24 2. Khó khăn đối với ngành giấy 26 3. Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 29 III/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập 36 1. Những thách thức và cơ hội đối với ngành giấy Việt Nam trong quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 37 2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam 45 Chương III Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam I/ Mục tiêu định hướng phát triển ngành giấy Việt Nam đến năm 2010 52 1. Quan điểm 52 2. Mục tiêu của ngành giấy đến năm 2010 54 II/ Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy A/ Về phía các doanh nghiệp 56 1. Xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp 56 2. Xây dựng nhận thức đúng đắn về hội nhập 57 3. Áp dụng biện pháp giảm chi phí, nâng cao chất lượng 59 4. Phát huy nhân tố con người 61 5. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp ngành giấy 64 6. Đầu tư hợp lý cho công nghệ 66 B/ Về phía Nhà nước 68 1. Xây dựng chiến lược qui hoạch phát triển ngành giấy hợp lý 68 2. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành giấy 70 3. Sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh cho toàn ngành 72 4. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho ngành giấy, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ 73 Kết luận Tài liệu tham khảo  Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 5 - Lời nói đầu Trong điều kiện, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng làm nảy sinh rất nhiều vấn đề mới mẻ. Quá trình hội nhập đã, đang và sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta. Hội nhập mang đến cơ hội cho nhiều ngành công nghiệp phát triển, xuất khẩu được nhiều hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm mới, nhưng cũng gây ra thách thức cho không ít ngành của nước ta, trong đó có ngành công nghiệp giấy. Giấy là một mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đối với nhu cầu của nhân dân và công nghiệp giấy có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển sản xuất mặt hàng giấy là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong ba chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa, học tập, sản xuất công nghiệp. Nhưng hiện đang có không ít ý kiến cho rằng, ngành công nghiệp giấy Việt Nam có năng lực cạnh tranh yếu và có thể sẽ bị hàng nước ngoài lấn áp hoàn toàn. Có thực như vậy không? Xuất phát từ ý định đưa ra một cái nhìn và một sự đánh giá tương đối tổng quát và công bằng hơn đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam trước những thách thức của quá trình hội nhập, tác giả đã thực hiện khóa luận này. Mục đích của tác giả không phải là đi sâu vào tình hình, thực trạng sản xuất, kinh doanh của ngành công nghiệp giấy Việt Nam hiện nay, mà đi vào phân tích, đánh giá thách thức, cơ hội và năng lực cạnh tranh của ngành, thông qua đó đề ra một hệ thống giải pháp ngành nên áp dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành. Khóa luận sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn giải để nêu rõ mục đích của khóa luận. Ngoài phần lời nói đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, kết cấu khóa luận được tác giả chia làm 3 chương: Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 6 - - Chương I :Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế - Chương II :Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế Chương III : Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam Do ngành giấy là một ngành tương đối đặc thù dẫn đến khó khăn trong việc thu thập thông tin và tài liệu tham khảo, đồng thời kiến thức và tư duy còn hạn hẹp, nên ý kiến của tôi nêu ra có thể còn chưa được hợp lý. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, và các bạn đọc. Qua khóa luận này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Song Hạnh, người đã giúp đỡ và chỉ dẫn cho tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Cám ơn khoa KTNT, thư viện trường đại học ngoại thương, chú Hoan, giám đốc công ty VPP Hồng Hà đã giúp đỡ và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu và thông tin bổ ích để thực hiện khóa luận. Cám ơn bố mẹ đã tạo điều kiện cho con được học tập ở trường đại học ngoại thương, cám ơn các thầy cô đã dạy dỗ em trong bốn năm qua. Bùi Đức Chí Toàn Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 7 - Chương I LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH (NLCT) VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NLCT CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP KINH TẾ I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh Trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa đang lan rộng, nền kinh tế thế giới đang phát triển rất nhanh thì vấn đề cạnh tranh trong thương mại và trong sản xuất không còn bó hẹp trong phạm vi giữa các doanh nghiệp của một quốc gia, mà đã mở rộng ra phạm vi quốc tế và mang tính toàn cầu. Cạnh tranh giữa các công ty của các quốc gia để tiêu thụ hàng hoá rất quyết liệt. Nhà sản xuất, xuất khẩu nào cũng muốn tiêu thụ hàng hóa sao cho được nhanh chóng, được nhiều để có thể thu được thật nhiều lợi nhuận, nhưng thị trường thì có muôn vàn khó khăn và nghiệt ngã cản bước họ. Thương trường là chiến trường, trong cuộc cạnh tranh tất nhiên sẽ có người chiến thắng và kẻ chiến bại. Người chiến thắng phải là người có năng lực cạnh tranh cao hơn kẻ chiến bại. Năng lực cạnh tranh chính là chìa khóa để một doanh nghiệp dành chiến thắng trước các đối thủ cạnh tranh. Thế nhưng ta hiểu thế nào là năng lực cạnh tranh? Và những nhân tố nào ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh? 1. Khái niệm năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm nhiều loại: - Năng lực cạnh tranh của quốc gia - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp - Năng lực cạnh tranh của hàng hóa Mỗi loại lại có những cách hiểu, khái niệm khác nhau, có những nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Cho tới nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 8 - khác nhau về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia. - Ở tầm quốc gia: Theo định nghĩa của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) thì: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”. - Ở cấp doanh nghiệp: Theo Fafchamps, một chuyên gia về năng lực cạnh tranh, cho rằng: “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường”. Theo khái niệm này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì coi là có năng lực cạnh tranh. Theo tôi, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là “năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng cao”. Hiểu một cách đơn giản năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng hãng đó bán được hàng nhanh, nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về một loại hàng cụ thể. Quan điểm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, cũng như đối với một ngành công nghiệp của một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới - “Năng lực cạnh tranh của hàng hóa là khả năng bán được hàng nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều người cùng bán hàng đó”. Nó liên quan trực tiếp đến quyết định lựa chọn của người mua. Trong khóa luận này tôi chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 9 - Có rất nhiều chỉ tiêu để phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Và chỉ có qua những chỉ tiêu này, chúng ta mới có thể theo dõi, đáng giá được đúng năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Trong đó, điển hình nhất là một số chỉ tiêu sau: a) Doanh số: là số tiền bán hàng thu được trong một thời gian nhất định. Doanh số = giá bán x số sản phẩm bán ra Trên thực tế, người ta không chỉ xem xét thuần túy về giá trị mà còn chú trọng về mặt hiện vật của số sản phẩm bán ra đó, kể cả số lượng và chất lượng. Trong khi lợi nhuận chỉ rõ khả năng sinh lời thì doanh số lại cho biết quy mô hay tầm cỡ của doanh nghiệp lớn hay nhỏ ở mức nào. Tuy nhiên, không phải khi nào doanh số của hãng này lớn hơn hãng kia, thì cũng có nghĩa là lợi nhuận của nó cũng sẽ lớn hơn một cách tương ứng. Điều này do sự tác động của nhiều yếu tố chi phối như việc lựa chọn loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, chất lượng kinh doanh… b) Thị phần của doanh nghiệp: là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh. Đây là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Số sp bán ra của doanh nghiệp Thị phần = Tổng số sp tiêu thụ của thị trường - Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đó là tỷ lệ % giữa giá trị sản phẩm của doanh nghiệp bán ra so với giá trị của toàn ngành. - Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó chính là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn phân khúc. - Thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, chỉ tiêu này cho biết vị thế sản phẩm của doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào? Số sp bán ra của doanh nghiệp Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 10 - Thị phần = Số sp bán ra của đối thủ Nếu hệ số trên của thị phần tương đối lớn hơn 1 thì lợi thế cạnh tranh thuộc về doanh nghiệp, và ngược lại. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp sẽ biết mình đang đứng ở vị trí nào, và có thể vạch ra một chiến lược hành động phù hợp. Chỉ tiêu này nói lên mức độ lớn của thị trường và vai trò vị trí của doanh nghiệp. Nó cho biết mức độ hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không hiệu quả. Khi tiềm lực của thị trường đang lên mà phần thị trường của doanh nghiệp không thay đổi tức là thị trường đã ngoài vòng kiểm soát của doanh nghiệp hay một phần của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho nên doanh nghiệp cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng thị trường của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm trên thị trường hiện tại, có giải pháp thích hợp lôi kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình… Mục tiêu doanh số và thị phần có liên quan mật thiết với nhau. Doanh số cho biết kết quả của doanh nghiệp ở thị trường đang hoạt động, còn thị phần thì chỉ rõ doanh nghiệp chiếm được bao nhiêu trong cả “chiếc bánh thị trường” đó. Hai mục tiêu này còn gọi là những mục tiêu tạo lợi thế cạnh tranh hay mục tiêu thế lực. Khi doanh số và thị phần càng vượt xa đối thủ, doanh nghiệp càng có nhiều lợi thế trong cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường và thao túng giá cả. Mức lợi thế áp đảo tuyệt đối sẽ dẫn tới sự lũng đoạn và độc quyền thị trưòng, hình thành giá cả lững đoạn và lợi nhuận lũng đoạn. c) Lợi nhuận: Lợi nhuận được định nghĩa một cách khái quát là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Chỉ tiêu lợi nhuận là thước đo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 11 - Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện để tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ mong muốn cho chi phí đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, cũng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường để nâng cao khả năng của doanh nghiệp. d) Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biết mức sinh lời của đồng vốn dùng trong kinh doanh. Tỷ suất này thể hiện sự bù đắp chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thông thường đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác hay ít nhất phải cao hơn mức lãi suất tín dụng ngân hàng. Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản kinh doanh của doanh nghiệp ấy. Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì chứng tỏ doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi và có hiệu quả. e) Tỷ suất doanh thu trên vốn: cho biết mức doanh thu tạo ra trên một đồng vốn, ngoài ra nó còn cho biết mức độ quay vòng của vốn. Tỷ suất này phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành và chu kỳ sản xuất kinh doanh. f) Tỷ lệ chi phí marketing trên tổng doanh thu: Đây cũng là một chỉ tiêu được sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, hay của một ngành liên quan trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà doanh nghiệp, ngành Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 12 - đó cung cấp. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của hàng hóa cũng chính là những yếu tố tạo ra năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành. Qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa ta có thể thấy được năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Vì thế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tổng thể, bao gồm nhiều nhân tố. Chất lượng: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu của năng lực cạnh tranh. Khi chất lượng cuộc sống ngày càng tăng thì người ta càng có xu hướng lựa chọn hàng hóa đẹp, tốt, có chất lượng cao hơn là chọn hàng hóa có giá rẻ. Tùy theo mặt hàng mà tiêu chí chất lượng có thể thay đổi, đối với hàng tiêu dùng, thì những hàng hóa có kiểu dáng hiện đại, màu sắc phù hợp thị hiếu, chất lượng tốt,… sẽ thu hút khách hàng và được lựa chọn. Đối với mặt hàng thiết bị máy móc, tiêu dùng dài ngày thì sự ưu việt của các tính năng, độ tin cậy cao, tiện nghi sử dụng là những yếu tố quyết định. Giá cả: giá cả cũng là một yếu tố có sức lôi cuốn người mua, và được người mua cân nhắc khi mua một sản phẩm nào đó. Tuy nhiên, giá thấp chưa chắc đã là một lợi thế, cái quyết định là tương quan hợp lý của giá và chất lượng. Trong trường hợp, khi hàng hóa có giá trị tương đương nhau, thì hàng hóa của doanh nghiệp nào có giá thấp hơn hàng hóa đó sẽ dễ bán hơn, và có khả năng cạnh tranh cao hơn. Chi phí sử dụng: Đối với những hàng hóa sử dụng dài ngày thì chi phí sử dụng là yếu tố rất quan trọng. Chi phí sử dụng thấp sẽ làm cho hiệu quả sử dụng cao. Người mua hàng rất quan tâm đến yếu tố này, bởi vì, nhiều khi chi phí sử dụng có thể vượt xa chi phí mua hàng. Hàng giá thấp nhưng chi phí sử dụng cao có thể làm cho tổng chi phí vẫn cao và sử dụng không kinh tế. Chi phí sử dụng thường là chi phí cho việc tiêu tốn năng lượng, nhiên liệu, vật liệu kỹ thuật, chi phí cho người vận hành, chi phí bảo dưỡng, duy tu…. Để chi phí sử dụng thấp thì sản phẩm phải được chế tạo hoàn hảo, trình độ kỹ thuật cao. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 13 - Phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán ( hậu mãi ): để tạo thuận lợi và lôi cuốn người mua, các doanh nghiệp thường cung cấp những dịch vụ miễn phí như chở hàng đến tận nơi, lắp đặt, hướng dẫn bảo hành,… Đó là những phục vụ kỹ thuật khi bán. Phục vụ kỹ thuật sau khi bán là bảo hành, cung cấp phụ tùng, tổ chức sửa chữa,… Đây cũng là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp, ngành nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của mình, và cho chính bản thân doanh nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, hàng hóa của hai doanh nghiệp có chất lượng, giá cả tương đương nhau thì khách hàng sẽ chọn hàng được doanh nghiệp phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán hoàn hảo. Điều này sẽ khiến khách hàng yên tâm, thoải mái hơn, tạo một ấn tượng đẹp nơi khách hàng, đồng thời giúp doanh nghiệp nhanh chóng phát hiện ra những thiếu sót, nhược điểm của sản phẩm và những đòi hỏi mong muốn của khách hàng… Từ đó, sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố, có những nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát (các nhân tố bên trong doanh ngiệp), và những nhân tố phức tạp, không lệ thuộc và không bị nhà doanh nghiệp chi phối (môi trường vĩ mô, môi trường ngành). Những nhân tố này tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo những chiều hướng khác nhau, và đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp thích hợp để ứng phó. * Môi trường vĩ mô Các nhân tố thuộc về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở các phương diện sau. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 14 - - Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào
Tài liệu liên quan