Trong bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là phát triển,
đang phát triển hay chậm phát triển thì sự đa dạng hoá các loại hình doanh
nghiệp luôn luôn tồn tại. Bên cạnh những doanh nghiệp lớn vốn thường
được xem như những đầu tàu phát triển của nền kinh tế, người ta không thể
không nhắc tới một số lượng đáng kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà vị trí
và vai trò của nó đã được khẳng định qua thực tế phát triển kinh tế của rất
nhiều quốc gia, rất nhiều nền kinh tế. Sự phát triển của các DNVVN đã và
đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra
động lực tăng trưởng của từng quốc gia và trên cơ sở đó, việc phát triển
DNVVN đã trở thành chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội chung của mỗi quốc gia trên thế giới.
Tại Việt nam, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước,
không thể không kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN. Đảng
và Nhà nước ta đã và đang có những chính sách, biện pháp, định hướng
chiến lược nhằm hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN phát triển.
Trong điều kiện hiện nay của Việt nam, phát triển tốt DNVVN không
những sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định về
chính trị-xã hội thông qua tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao
động, giảm đói, nghèo và tăng phúc lợi xã hội. Hơn nữa, các DNVVN có
lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ dàng thích ứng với sự biến động của
thị trường, phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh của phần lớn chủ doanh
nghiệp nước ta hiện nay. Do vậy, ở một nước mà phần lớn lao động làm
nông nghiệp như nước ta thì chính DNVVN là tác nhân và là động lực thúc
đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
ở nước ta, các DNVVN tuy cũng đã có môi trường để phát triển khá thuận
lợi và đã đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả ấy chưa
tương xứng với vị trí và vai trò của DNVVN. Thực tế đó đòi hỏi những
chiến lược thông minh nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
Nam.
Để đóng góp phần vào việc tìm ra những giải pháp tích cực hỗ trợ
phát triển các DNVVN nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, góp
phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” làm đề tài cho khóa luận
tốt nghiệp đại học của mình.
Cũng xuất phát từ đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu rộng
của đề tài, và với sự giới hạn của khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp đại
học nên mục tiêu của tôi khi viết về đề tài này là qua đây tạo ra một cái nhìn
chung, một đánh giá chung về thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Việt nam. Do đó tôi chỉ tiếp cận đến những vấn đề chung nhất, bức xúc
nhất và mang tính thời sự nhất và qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
cơ bản khắc phục những tồn tại của loại hình doanh nghiệp này.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương
với những nội dung sau:
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Việt Nam
108 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2136 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Thực trạng và một số giải pháp nhằm
phát triển loại hình doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Việt nam
2
Lời nói đầu
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là phát triển,
đang phát triển hay chậm phát triển thì sự đa dạng hoá các loại hình doanh
nghiệp luôn luôn tồn tại. Bên cạnh những doanh nghiệp lớn vốn thường
được xem như những đầu tàu phát triển của nền kinh tế, người ta không thể
không nhắc tới một số lượng đáng kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà vị trí
và vai trò của nó đã được khẳng định qua thực tế phát triển kinh tế của rất
nhiều quốc gia, rất nhiều nền kinh tế. Sự phát triển của các DNVVN đã và
đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra
động lực tăng trưởng của từng quốc gia và trên cơ sở đó, việc phát triển
DNVVN đã trở thành chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội chung của mỗi quốc gia trên thế giới.
Tại Việt nam, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước,
không thể không kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN. Đảng
và Nhà nước ta đã và đang có những chính sách, biện pháp, định hướng
chiến lược nhằm hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN phát triển.
Trong điều kiện hiện nay của Việt nam, phát triển tốt DNVVN không
những sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định về
chính trị-xã hội thông qua tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao
động, giảm đói, nghèo và tăng phúc lợi xã hội... Hơn nữa, các DNVVN có
lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ dàng thích ứng với sự biến động của
thị trường, phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh của phần lớn chủ doanh
nghiệp nước ta hiện nay. Do vậy, ở một nước mà phần lớn lao động làm
nông nghiệp như nước ta thì chính DNVVN là tác nhân và là động lực thúc
đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
ở nước ta, các DNVVN tuy cũng đã có môi trường để phát triển khá thuận
lợi và đã đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả ấy chưa
tương xứng với vị trí và vai trò của DNVVN. Thực tế đó đòi hỏi những
3
chiến lược thông minh nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
nam.
Để đóng góp phần vào việc tìm ra những giải pháp tích cực hỗ trợ
phát triển các DNVVN nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, góp
phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” làm đề tài cho khóa luận
tốt nghiệp đại học của mình.
Cũng xuất phát từ đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu rộng
của đề tài, và với sự giới hạn của khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp đại
học nên mục tiêu của tôi khi viết về đề tài này là qua đây tạo ra một cái nhìn
chung, một đánh giá chung về thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Việt nam. Do đó tôi chỉ tiếp cận đến những vấn đề chung nhất, bức xúc
nhất và mang tính thời sự nhất và qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
cơ bản khắc phục những tồn tại của loại hình doanh nghiệp này.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương
với những nội dung sau:
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Việt nam
Môi trường kinh tế luôn luôn biến động. Do đó, trong một thời
gian nghiên cứu ngắn và với những hạn chế chủ quan khác như thời
gian nghiên cứu, kinh nghiệm thực tế còn ít ỏi và bước đầu làm quen
với công tác nghiên cứu, nên khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế. Tôi cũng mong nhận được sự đóng góp để bài khoá luận
thêm hoàn chỉnh.
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ
4
A. Khái niệm và tiêu chí xác định
1.Khái niệm ở một số nước trên thế giới.
Khái niệm DNVVN tuy có mặt ở rất nhiều nền kinh tế trên thế giới,
nhưng lại không có một điểm chung thống nhất giữa các quốc gia thế nào là
một DNVVN, điều này thể hiện sự khác nhau giữa các điều kiện hoàn cảnh
lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội giữa các quốc gia, đồng thời thể hiện sự
khác nhau trong các chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của các DNVVN giữa các quốc gia.
Việc xác định thế nào là một DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng để
xác định đúng đối tượng hỗ trợ. Nếu xác định rộng thì các chính sách ưu đãi
lại không đủ sức bao quát, tác dụng hỗ trợ theo đó giảm đi rất nhiều. Ngược
lại, nếu xác định hẹp khái niệm DNVVN thì tác dụng của sự hỗ trợ lại ít có
tác dụng đến nền kinh tế.
Dưới đây là cách xác định DNVVN ỏ một số quốc gia và khu vực:
a.Khu vực EU
Đây là khu vực phát triển rất mạnh các DNVVN ( 80% số doanh
nghiệp EU có số lượng dưới 100 người). Tiêu chí xác định DNVVN ở EU
căn cứ vào 3 yếu tố chính là: số lao động được sử dụng thường xuyên, doanh
số bán hàng năm và vốn đầu tư cho sản xuất
Bảng 1: Phân loại DNVVN của khu vực EU
Tiêu thức phân loại Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động tối đa 50 250
Doanh thu/ năm tối đa 7 triệu EURO 40 triệu EURO
Tồng kết tài sản/ năm
tối đa
5 triệu EURO
27 triệu EURO
Nguồn: SMEs definition, www.modcontractsuk.com
Sự phân định như vậy chưa xác đáng vì không phân biệt các doanh
nghiệp giữa các ngành trong khi có một thực tế là đặc điểm kinh tế giữa các
ngành nhiều khi quyết định qui mô doanh nghiệp.
b.Khu vựcASEAN
5
Tại các nước ASEAN, khái niệm về DNVVN còn có sự khác nhau.
Song nhìn chung các nước Singapore, Malaixia, Inđônêxia, Thái lan,
Philippin đều dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định một doanh nghiệp
thuộc quy mô vừa, nhỏ hay lớn, đó là: số lượng lao động được sử dụng và
vốn đầu tư. Ví dụ: với Singapore, quan niệm DNVVN là những doanh
nghiệp có số lượng lao động dưới 100 người và vốn đầu tư dưới 1,2 triệu đô
la Singapore. Với Malaixia, DNVVN là những doanh nghiệp có số lao động
dưới 200 người và vốn đầu tư dưới 2,5 triệu đô la Malaixia. Còn với
Inđônêxia, Thái lan và Philippin thì có sự phân loại chi tiết hơn thành doanh
nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp cực nhỏ trong đó doanh
nghiệp cực nhỏ thường là những hộ kinh doanh trong phạm vi gia đình.
Như vậy quan niệm thế nào là một DNVVN ở một số nước ASEAN
còn có sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương
đối và chủ yếu căn cứ vào quy mô về vốn và lao động của nó. Do đó cách
xác định DNVVN cũng mắc phải một số nhược điểm như cách phân loại
một số nước trong khu vực EU, Tức là chưa xét đến yếu tố đặc điểm kinh tế
ngành.
c.Nhật Bản
Khái niệm DNVVN tại Nhật bản được xác định trong “Luật cơ bản về
DNVVN” ban hành năm 1963, được sửa đổi năm 1973 và 1999. Trong Luật
này các tiêu chuẩn xác định DNVVN đã phần nào khắc phục được những
nhược điểm trên. Cụ thể là, việc phân định DNVVN ở nước này đã có sự
khác biệt giữa các ngành. Tùy theo từng ngành nghề mà DNVVN và doanh
nghiệp loại nhỏ được phân loại khác nhau xét theo vốn pháp định và số
lượng lao động như sau:
Bảng 2 : Phân loại DNVVN của Nhật Bản
Ngành Doanh nghiệp vừa Doanh
6
Năm 1963 Năm 1973 Năm 1999 nghiệp nhỏ
Vốn
(triệu
Yên)
Lao
động
Vốn
(triệu
Yên)
Lao
động
Vốn
(triệu
Yên)
Lao
động Lao động
Công
nghiệp, khai
khoáng
≤50 ≤300 ≤300 ≤100 ≤300 ≤300 ≤20
Bán buôn
≤10 ≤30
≤100 ≤30 ≤100 ≤100
≤5 Bán lẻ
≤50 ≤10
≤50 ≤50
Dịch vụ ≤10 ≤50
Nguồn: Tổng cục DNVVN Nhật Bản, www.chusho.miti.go.jp
d.Mỹ
Tại Mỹ, nơi mà khi nhắc tới, người ta nghĩ ngay đến những tập đoàn kinh
tế hùng mạnh thì vai trò của các DNVVN cũng được rất đề cao ở đây. Việc
phân loại các DNVVN cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên
cạnh những tiêu chuẩn về mặt định lượng như : Lợi nhuận với mức tăng
trưởng hàng năm dưới 150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch
vụ và thương mại; hay các tiêu chuẩn về lao động để phân loại quy mô
DNVVN tùy thuộc vào từng ngành riêng biệt như sau:
- Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Tổ chức có từ 250 lao động trở
xuống được coi là doanh nghiệp nhỏ.
- Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại bán lẻ: doanh
nghiệp có dưới 100 lao động thì được coi là nhỏ; từ 100-1.000 lao động
được coi là vừa và từ 1.000 lao động trở lên được coi là lớn và rất lớn.
Luật DNVVN của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn về mặt định tính
như: DNVVN là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong
ngành của mình liên quan. Theo khái niệm của Mỹ, các DNVVN không phải
là công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn . Điều này khác
hẳn với các DNVVN ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh thuộc
công ty lớn vẫn được hưởng những đặc quyền của các DNVVN.
7
e.Hàn quốc:
Khái niệm DNVVN của Hàn quốc được quy định tại “Đạo luật cơ
bản về DNVVN của Hàn Quốc” ban hành năm 1966 và đã trải qua nhiều
lần sửa đổi bổ sung. Theo đó, việc phân loại DNVVN được thực hiện theo
hai nhóm ngành:
-Trong ngành chế tạo, khai thác và xây dựng: các doanh nghiệp có
vốn đầu tư dưới 600.000 USD và số lao động thường xuyên từ 200-300
người là doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường
xuyên là doanh nghiệp nhỏ.
-Trong thương mại: DNVVN là doanh nghiệp có doanh thu dưới
250.000 USD/ năm. Doanh nghiệp có từ 6 tới 20 lao động là doanh nghiệp
vừa, doanh nghiệp có lao động dưới 5 người được coi là doanh nghiệp nhỏ,.
Nhận xét chung:
Khái niệm DNVVN chỉ nên được hiểu một cách tương đối, bởi sự
quan niệm về các DNVVN ở các quốc gia và các khu vực trên thế giới là
không đồng nhất hoàn toàn do ảnh hưởng của các nhân tố vốn không hề
giống nhau giữa các khu vực và quốc gia, đó là trình độ phát triển kinh tế xã
hội, tính chất nghề nghiệp, cơ cấu vùng lãnh thổ, tính lịch sử, mục đích phân
loại…
Qua những khái niệm DNVVN đã và đang được áp dụng rộng rãi trên
thực tế ở nhiều nước, có thể thấy rằng nhóm tiêu chí phân loại “lao động”
và “vốn” đầu tư được sử dụng khá phổ biến. Và tuỳ theo điều kiện kinh tế,
xã hội cụ thể của mỗi nước mà các thước đo này cao hoặc thấp, và có thể đi
kèm thêm các tiêu chí phân loại khác. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, Việt
Nam có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm tổ chức và quản lý DNVVN
của các nước trên thế giới và trong khu vực.
2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam.
8
ở Việt Nam, những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu nhận thức và
quan tâm đến tầm quan trọng của DNVVN. Ngày 29/11/2000. Tại Hà nội,
Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo: “ Việt nam 2010 tiến vào
thế kỷ 21” với đề xuất đưa ra 6 trụ cột của chiến lược phát triển nền kinh tế
Việt nam thì trụ cột đầu tiên là : “Tạo dựng môi trường giúp đỡ các doanh
nghiệp, đặc biệt là các DNVVN”.
Tuy nhiên, cho đến trước năm 1998 khái niệm về DNVVN chưa được
một văn bản pháp lý nào của Nhà nước công nhận cụ thể. Quan niệm về
DNVVN ở Việt nam vì vậy mà rất khác nhau. Cụ thể là:
+Ngân hàng công thương Việt Nam đưa ra qui định DNVVN là doanh
nghiệp có giá trị tài sản dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, số lao
động thường xuyên dưới 500 người và doanh thu dưới 20 tỷ đồng/năm .
+Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội và Bộ Tài chính quy định tiêu chí
xác định DNVVN tại Thông tư số 21/LĐTT ngày 17/6/1993, theo đó,
DNVVN là doanh nghiệp có số lao động thường xuyên duới 100 người,
doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ, vốn pháp định dưới 10 tỷ.
+Thành phố Hồ Chí Minh xác định doanh nghiệp qui mô vừa là doanh
nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động có trên 100 người, doanh
thu hàng năm trên 10 tỷ đồng. Doanh nghiệp qui mô nhỏ có các tiêu thức
dưới mức trên
+ Dự án VIE/ US/ 95/ 004 hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam do UNIDO tài
trợ coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người, vốn
đăng ký dưới 0,1 triệu USD.Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao
động từ 30 người đến 200 người và vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD
+Qũy hỗ trợ DNVVN thuộc chương trình Việt Nam-EU coi DNVVN
là những DN có số lao động từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000
USD đến 300.000 USD tức từ khoảng 650 triệu đồng đến 3,9 tỷ đồng Việt
Nam.
…và còn nhiều cách quan niệm khác nữa.
Như vậy, mỗi tổ chức, mỗi dự án đều có một cách xác định riêng cho
mình về DNVVN. Điều này tạo ra sự thiếu nhất quán và khó khăn cho
9
Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách ưu đãi một cách công bằng và
hiệu quả và cũng tạo ra khó khăn cho chính các DNVVN khi thực hiện
chính sách hỗ trợ.
Đến ngày 20/6/1998. Thủ tướng Chính phủ đã có qui định tại Công
văn số 681/CP-KTN xác định tiêu thức DNVVN tạm thời qui định trong
giai đoạn hiện nay là : “DNVVN là những doanh nghiệp có vốn điều lệ trung
bình dưới 5 tỷ VND và có số lao động trung bình dưới 200 người” . Tuy
mới chỉ là tiêu chí quy ước tạm thời mang tính hành chính để xây dựng cơ
chế chính sách hỗ trợ DNVVN nhưng có thể coi đây chính là bước đi đầu
tiên của chính phủ trong việc xây dựng 1 cơ sỏ pháp lý chính thức là cơ sở
hoạch định và triển khai các chính sách và biện pháp phát triển DNVVN tại
Việt nam. Cũng theo qui định này, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số
lao động dưới 30 người và vốn dưới 1 tỷ VND. Doanh nghiệp vừa là các
doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ VND đến 5 tỷ VND. Đối với các doanh nghiệp
công nghiệp thì doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ VND trở xuống, các doanh
nghiệp thương mại và dịch vụ thì số lao động dưới 30 người.
Đến ngày 23/11/2001. Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới và khu vực. Xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội của nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/CP-NĐ về
việc trợ giúp và phát triển DNVVN. Theo đó, DNVVN được hiểu là: “cơ sở
sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện
hành, có vốn đăng ký < 10 tỷ VND hoặc có số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người ”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của
từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, các chương
trình trợ giúp, có thể áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc
một trong hai chỉ tiêu đó.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có
đăng ký kinh doanh và thoả mãn 2 tiêu thức trên đều được coi là DNVVN.
Theo cách phân loại này, Tại Việt nam hiện nay, số DNVVN hiện vào
khoảng 60.300 doanh nghiệp,chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp. Bên
10
cạnh đó là hơn 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, 16.000 hợp tác xã, hàng trăm
nghìn trang trại tư nhân.
B. Đặc điểm của DNVVN
1.Tính tất yếu cuả việc tồn tại các DNVVN
Sự tồn tại và phát triển DNVVN là một tất yếu trong nền kinh tế của
bất kỳ quốc gia nào, điều đó được phản ánh thông qua những lí do chủ yếu
sau:
- Nền kinh tế của một quốc gia là tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ
tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các
DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN- điển hình nhất là con
đường thành công của Đài Loan. Quy luật đi từ nhỏ lên lớn là con đường tất
yếu về sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hoá. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh
nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ
cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú, linh hoạt, vừa đáp ứng các xu hướng
phát triển đi lên, lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều
kiện của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu
quả chung của toàn nền kinh tế.
-Trong nền kinh tế mỗi nước luôn luôn, tồn tại sự phát triển của phân
công lao động xã hội không đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực và các
vùng. Sự phát triển không đồng đều này biểu hiện ra bên ngoài bằng những
hình thức tổ chức sản xuất với những qui mô khác nhau. Sự tồn tại nhiều
loại hình doanh nghiệp với các qui mô khác nhau vì vậy là tất yếu.
-Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những ưu và nhược điểm kể cả
các doanh nghiệp có qui mô lớn. Các doanh nghiệp lớn không thể tồn tại
một mình mà có thể bao quát hết cả những nhu cầu đa dạng và phong phú
trên thị trường một cách có hiệu quả. Yêu cầu hiệu qủa kinh tế tạo điều kiện
cho sự xuất hiện và tồn tại đồng thời trong mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau
11
giữa doanh nghiệp lớn và DNVVN như những lực lượng bổ sung, hỗ trợ
cùng nhau phát triển có hiệu quả hơn.
-Do những lợi ích mà các DNVVN mang lại, đặc biệt là trong việc
giải quyết những mục tiêu xã hội quan trọng như việc làm, thu nhập và sự
phát triển đồng đều giữa các vùng. Các DNVVN được sử dụng như một giải
pháp phát triển nhằm thực hiện những nhiệm vụ đó.
Như vậy, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế không thể
không có các doanh nghiệp quy mô lớn, vốn nhiều, kĩ thuật hiện đại làm
nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để có thể cạnh tranh thắng
lợi trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp
lớn thật cần thiết, chúng ta còn phải thực hiện những biện pháp để tăng khả
năng tích tụ và tập trung của các DNVVN, tạo điều kiện cho chúng có thể
nhanh chóng vươn lên trở thành những doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các
loại quy mô doanh nghiệp trong từng ngành, cũng như trong toàn nền kinh
tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển DNVVN là phù hợp với xu thế chung
và thích hợp với xuất phát điểm về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy,
phát triển mạnh các DNVVN với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút
nhiều lao động là phương hướng chiến lược quan trọng của qúa trình phát
triển kinh tế Việt nam, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
như hiện nay.
2. Đặc điểm chung của các DNVVN
-Nhạy cảm, linh hoạt, thích ứng nhanh với sự biến động của thị
trường: Thông thường, các DNVVN năng động và linh hoạt hơn so với các
doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh qua hệ thống tổ chức sản xuất,
quản lí gọn nhẹ, công việc điều hành mang tính trực tiếp, đồng thời DNVVN
có khả năng đổi mới nhanh trang thiết bị kỹ thuật, thích ứng nhanh với thị
trường biến động.
-Vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều: Do là loại hình doanh nghiệp
có quy mô sản xuất không lớn về mặt bằng sản xuất, số lao động, doanh
số...nên vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều, có thể bằng vốn tự có hay
vay mượn nhỏ. Do đó chúng tạo ra cơ hội đầu tư đối với nhiều người, tạo
12
điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân trong nước dù ở điều kiện văn hoá,
giáo dục khác nhau đều có thể tìm kiếm cơ hội lập nghiệp. Chính vì thế mà
ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, số lượng DNVVN
tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số các doanh nghiệp trong
nền kinh tế.
-Hoạt động nhanh chóng và thu hồi vốn nhanh: Các DNVVN chủ
yếu hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến
thực phẩm, thương mại dịch vụ...vốn là những ngành thu hồi vốn nhanh.
Theo thống kê, ở các nước phát triển các DNVVN hàng năm có thể khấu
hao đến 50-60% giá trị tài sản cố định và thời gian hoàn vốn không quá 2
năm. ở các nước đang phát triển, việc thu hồi vốn cũng tương đối nhanh, tuỳ
thuộc vào khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp và đặc điểm từng lĩnh
vực kinh doanh cũng như chính sách khấu hao tài sản cố định của Nhà nước.
-Sử dụng các loại máy móc công nghệ trung bình và mang tính
trung gian, đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Các DNVVN gắn liền với các
công nghệ trung gian vốn là cầu nối giữa công nghệ truyền thống và công
nghệ hiện đại. Và lợi thế đặc biệt của công nghệ trung gian là sử dụng nhiều
lao động, từ đó tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân. Điều này không
những cần thiết đối với các nước đang phát triển như Việt nam mà còn cần
thiết đối với các nước phát triển.
-Quan hệ chủ thợ tốt đẹp: Quan hệ giữa người lao động và người
quản lí trong các DNVVN