1. Mở đầu
Nửa sau thế kỉ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, và từng bước thiết lập
ách thống trị của mình trên toàn cõi Đông Dương. Dưới ách thống trị của chúng,
nhân dân các nước Đông Dương, trong đó có nhân dân Lào đã nhiều lần nổi dậy
đấu tranh. Là hai nước láng giềng có chung một kẻ thù, nên ngay từ đầu cuộc chiến
đấu của nhân dân hai nước Lào - Việt đã có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khởi
nghĩa Chậu Phạ Pat Chay (1918-1922), là một trong những ví dụ điển hình, nói lên
tình đoàn kết chiến đấu thắm tình hữu nghị giữa hai dân tộc chống lại thực dân
Pháp.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khởi nghĩa Chậu Phạ Pat Chay (1918 - 1922) - Một biểu hiện sinh động của tình đoàn kết chiến đấu Lào - Việt chống thực dân Pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2011, Vol. 56, No. 2, pp. 27-32
KHỞI NGHĨA CHẬU PHẠ PAT CHAY (1918 - 1922)
- MỘT BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA TÌNH ĐOÀN KẾT
CHIẾN ĐẤU LÀO - VIỆT CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
Đinh Ngọc Ruẫn
Trường Đại học Tây Bắc
1. Mở đầu
Nửa sau thế kỉ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, và từng bước thiết lập
ách thống trị của mình trên toàn cõi Đông Dương. Dưới ách thống trị của chúng,
nhân dân các nước Đông Dương, trong đó có nhân dân Lào đã nhiều lần nổi dậy
đấu tranh. Là hai nước láng giềng có chung một kẻ thù, nên ngay từ đầu cuộc chiến
đấu của nhân dân hai nước Lào - Việt đã có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khởi
nghĩa Chậu Phạ Pat Chay (1918-1922), là một trong những ví dụ điển hình, nói lên
tình đoàn kết chiến đấu thắm tình hữu nghị giữa hai dân tộc chống lại thực dân
Pháp.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Vài nét về cuộc khởi nghĩa
Với hiệp ước Pháp - Xiêm kí kết tại Băngcốc (3-10-1893), thực dân Pháp đã
chính thức bắt đầu đặt ách thống trị của mình trên đất nước Lào, cũng như trên
toàn cõi Đông Dương.
Để đạt được mục đích thống trị, thực dân Pháp không ngừng tăng cường vơ
vét, bóc lột nhân dân Lào bằng đủ mọi biện pháp, như thực hiện chế độ thuế khoá
rất nặng nề và chế độ lao dịch vô cùng hà khắc. Trong Lịch sử Lào hiện đại, tập II,
các tác giả thông qua việc trích dẫn tư liệu, đã phản ánh về vấn đề này như sau:
“Thuế má tăng vọt lên, nhiều thứ thuế xưa chưa từng có, nay phải nộp cho người
Pháp. Thuế thân trước đây quy định là 0,6 đồng nay tăng vọt lên 2 đồng. Số người
miễn thuế giảm dần...”, và “phu phen nặng nhọc, mỗi người phải đi phu hai tháng
trong một năm, không kịp hồi sức” [7;22]. Ngoài ra, thực dân Pháp còn thực hiện
chính sách ngu dân và chính sách chia để trị, gây thù hằn giữa các dân tộc. Xứ Lào
thuộc Pháp chỉ khoảng ba triệu dân mà chúng đã áp dụng ba chế độ cai trị khác
nhau: “bảo hộ”, “trực trị” và “quân quản”. Để nâng cao hiệu quả của chính sách chia
27
Đinh Ngọc Ruẫn
để trị, bọn thực dân còn dùng bộ máy quan lại cũ và một số tù trưởng, tộc trưởng
làm tay sai đàn áp và đè nén nhân dân trong và ngoài bộ tộc. Riêng với vùng Bắc
Lào, nơi cư trú chủ yếu của bộ tộc Lào Xủng (mà đa số là người Mông - có khoảng
từ 10 vạn đến 15, 16 vạn người), ngoài việc bóc lột bằng các chính sách trên, chúng
còn bắt người dân ở đây phải đóng thêm thuế thuốc phiện. Theo đó, mỗi người Lào
Xủng phải nộp 2 kg thuốc phiện một năm. Đây là một chính sách vô cùng tàn bạo,
bởi nó không đếm xỉa đến việc tất cả mọi người dân ở đây, có trồng thuốc phiện
hay không. Vì vậy, trên thực tế, thực dân Pháp có thể chiếm đoạt hầu hết số thuốc
phiện sản xuất được ở vùng này. Thuế thuốc phiện cùng với những chính sách thống
trị khác, đã làm cho mâu thuẫn giữa người Lào Xủng với thực dân Pháp diễn ra
gay gắt. Hệ quả tất yếu của nó, là dẫn tới sự bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa của
nhân dân. Trong số các cuộc khởi nghĩa diễn ra ở Bắc Lào, tiêu biểu nhất phải kể
đến cuộc khởi nghĩa do Chậu Phạ Pat Chay lãnh đạo (1918 - 1922).
Phong trào khởi đầu từ vùng Tây Bắc - Việt Nam, và đến đầu năm 1918 thì
nổi lên mạnh mẽ, rồi sau đó đến mùa thu 1919, chiến sự lan rộng sang vùng Đông
Bắc Lào (Sầm Nưa, Xiêng Khoảng...).
Trong giai đoạn từ năm 1918 đến nửa đầu năm 1919, đã diễn ra nhiều cuộc
tấn công của quân đội thực dân Pháp vào các căn cứ của nghĩa quân ở Tây Bắc
Việt Nam như Thuận Châu, Sơn La (thuộc địa bàn tỉnh Sơn La), Long Hẹ (thuộc
Điện Biên). Tuy nhiên, các cuộc tấn công của chúng, đã bị nghĩa quân phục kích
chặn đánh, hoặc chủ động tấn công, nên gặp nhiều tổn thất nặng nề. Trong những
trận giao chiến giữa quân khởi nghĩa và quân đội thực dân vào các ngày 16, 17 và
21 tháng 1 năm 1919 trên địa bàn Sơn La, Gôchiê - tên quan ba Pháp chỉ huy cuộc
tấn công, cùng một số hạ sĩ quan quân đội thực dân đã bị tiêu diệt. Từ mùa hè năm
1919, khi nghĩa quân di chuyển lên Điện Biên, cuộc khởi nghĩa bắt đầu phát huy
ảnh hưởng của mình sang vùng Đông Bắc Lào trên địa bàn các tỉnh Sầm Nưa và
Xiêng Khoảng.
Đến mùa thu năm 1919, chiến sự nổ ra chủ yếu ở các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng
Khoảng và sau đó lan rộng sang phía Tây, đến tận vùng biên giới Lào - Xiêm. Giai
đoạn này, quân đội thực dân đã mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào các khu
căn cứ của nghĩa quân. Pat Chay một mặt lãnh đạo quân khởi nghĩa phục kích
chặn đánh địch, mặt khác còn chủ động mở những cuộc tấn công đối phương, mà
điển hình là cuộc tấn công đồn Mường Hợp, gần biên giới Lào - Việt. Song song với
những hoạt động quân sự, Pat Chay cũng gấp rút chỉ đạo việc củng cố các căn cứ
địa để kịp thời đối phó với địch. Dưới sự lãnh đạo của ông, nhiều căn cứ như Phu
Lơi, Phù Phantrung thuộc khu trung tâm được xây dựng. Các khu căn cứ khác tại
Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Luông Phabang cũng đều ở trong thời kì củng cố tổ chức.
Đầu năm 1920, quân Pháp phải thay đổi kế họach tác chiến: trước hết tập
trung lực lượng càn quét các vùng ngoại vi, sau đó sẽ dồn lực lượng đánh vào khu
28
Khởi nghĩa Chậu Phạ Pat Chay (1918 - 1922) - một biểu hiện sinh động...
trung tâm. Vì vậy, trong những tháng đầu năm 1920, đã diễn ra nhiều cuộc giao
chiến dữ dội giữa hai bên. Nhận thấy tương quan lực lượng chênh lệch, nên nghĩa
quân chủ động rút lui khỏi các căn cứ ở vùng núi Phu Lơi, bản Phu Đeng về củng
cố căn cứ Pa Kha và một số căn cứ khác thuộc Xiêng Khoảng. Trước nguy cơ lan
rộng của cuộc khởi nghĩa, tháng 12 năm 1920, sau khi có sự điều chỉnh về kế hoạch
tác chiến và chỉ huy, quân Pháp bắt đầu mở những cuộc tấn công lớn vào căn cứ
nghĩa quân ở Sùng Quán, Lào Ván, Phìa Chàm... Sau nhiều cuộc chiến đấu ác liệt,
nghĩa quân rút sâu vào rừng núi tiếp tục cuộc chiến đấu. Nhân dân cũng bỏ bản ra
rừng với nghĩa quân, thực hiện vườn không nhà trống.
Sang năm 1921, các hoạt động quân sự diễn ra lẻ tẻ và yếu dần. Cùng với việc
sử dụng vũ lực, thực dân Pháp còn thực hiện nhiều biện pháp thâm độc như dùng
tiền bạc để dụ dỗ, mua chuộc, chia rẽ nội bộ... Cho đến cuối năm 1922, sau khi Pat
Chay bị ám sát, cuộc khởi nghĩa tan dần.
2.2. Tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân hai nước Lào - Việt
trong cuộc khởi nghĩa
Điều đáng lưu ý là qua khởi nghĩa Chậu Phạ Pat Chay (1918 – 1922), truyền
thống đoàn kết gắn bó giữa hai dân tộc Lào - Việt, tiếp tục được củng cố và phát
triển. Trong cuộc khởi nghĩa, chúng ta thấy, địa bàn hoạt động của nghĩa quân trải
ra trên một vùng rộng lớn, dọc hai bên biên giới Lào - Việt ở phía Bắc, bao gồm
nhiều tỉnh như Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Luông Phabang, Sơn La, Điện Biên... Lợi
dụng điều kiện núi non hiểm trở, giao thông đi lại hết sức khó khăn, bên cạnh đó,
lại được nhân dân che chở nên nghĩa quân đã xây dựng được một loạt các căn cứ
kháng chiến trên địa bàn của cả hai nước (Thuận Châu, Long Hẹ... thuộc các tỉnh
Sơn La, Điện Biên và Phu Lơi, Phù Phantrung, Lào Ván. . . thuộc các tỉnh Sầm
Nưa, Xiêng Khoảng). Dựa vào hệ thống căn cứ này, quân khởi nghĩa vừa triển khai
chiến đấu vừa tiến hành sản xuất. Như vậy, cuộc khởi nghĩa đã trở thành một chiến
trường chung của hai dân tộc trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù chung.
Cuộc khởi nghĩa ban đầu đơn thuần chỉ là sự phản kháng của bộ tộc Lào Xủng
(mà đa số là người Mông) ở các tỉnh Bắc Lào, và người Mông ở Tây Bắc - Việt Nam,
nhưng sau đó đã thu hút được sự tham gia của nhiều dân tộc khác. Trong giai đoạn
đầu năm 1918, hưởng ứng phong trào đánh Pháp của nghĩa quân Pat Chay, đồng
bào Mông khắp vùng É Tòng, Long Hẹ, Cò Mạ thuộc Thuận Châu – Sơn La dưới sự
lãnh đạo của Vàng Nểnh Pha đồng loạt nổi dậy chống thuế, không nộp tiền bạc và
thuốc phiện cho thực dân Pháp, sau đó hội tụ lại trong cuộc khởi nghĩa Pat Chay.
Đầu năm 1919, trên địa bàn Điện Biên, cũng diễn ra sự hợp nhất giữa nghĩa quân
ở vùng rừng núi Long Hẹ do Cầm Xu lãnh đạo, với quân khởi nghĩa của Pat Chay.
Những sự kiện trên, vừa đánh dấu bước phát triển của cuộc khởi nghĩa, vừa là minh
chứng cho tình đoàn kết chiến đấu của hai dân tộc trong giai đoạn đầu chống thực
29
Đinh Ngọc Ruẫn
dân Pháp. Khi nhận định về cuộc khởi nghĩa, bọn thực dân cho rằng: “Cuộc nổi
dậy có xu hướng mất dần tính chất địa phương của nó và hình như muốn lôi cuốn
các nhóm người Mông phân bố trên toàn bộ miền Thượng Lào” [1;124]. Tên tư lệnh
đạo quân binh thứ 4, trong báo cáo gửi về Phủ Toàn quyền phải thú nhận: “Thời kỳ
đầu cuộc tác chiến rõ ràng không phải chúng ta (Pháp) chỉ phải đương đầu với một
lũ giặc cỏ (nghĩa quân vùng cao) có từ 80 đến 100 tay súng mà phải đối phó với cả
một dân tộc đã nổi dậy theo Pat Chay” [3;19-20]. Lời nhận định đó chỉ đúng một
phần, vì trên thực tế, cuộc khởi nghĩa không chỉ bó hẹp trong phạm vi của người
Mông ở Bắc Lào, mà còn lôi kéo được sự tham gia của một bộ phận người Mông
và người Thái ở Tây Bắc - Việt Nam. Qua sự phân tích trên, có thể đi tới nhận
định sau: cuộc khởi nghĩa Pat Chay là cuộc nổi dậy có quy mô lớn, thu hút được sự
tham gia của một bộ phận khá đông các dân tộc ít người sinh sống trên vùng núi
cao Thượng Lào và Tây Bắc - Việt Nam, trong đó người Mông giữ vai trò chủ thể.
Vậy cơ sở nào góp phần vào việc xây đắp tình đoàn kết chiến đấu của nhân
dân hai nước trong cuộc khởi nghĩa? Về vấn đề này, có thể lí giải như sau:
Xét về góc độ địa lí, Lào và Việt Nam là hai quốc gia núi liền núi, sông liền
sông. Vùng Đông Bắc Lào tiếp giáp Tây Bắc - Việt Nam, được tạo nên một địa bàn
tự nhiên đặc biệt với núi cao, rừng rậm. Các dãy núi phía Tây (dãy núi Sông Mã với
chiều dài 500 km, có nhiều đỉnh núi cao tới 1.800 m) chạy qua các tỉnh Điện Biên,
Sơn La là bộ phận kéo dài của hệ thống núi Bắc Lào. Yếu tố tự nhiên này, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phối hợp chiến đấu trên chiến trường. Trong quá trình triển
khai chiến đấu, địa bàn hoạt động của nghĩa quân lúc thì diễn ra trên lãnh thổ các
tỉnh Đông Bắc Lào (Sầm Nưa, Luông Phabang. . . ), lúc lại diễn ra trên lãnh thổ Tây
Bắc - Việt Nam (Điện Biên, Sơn La). Do đó, tuy có lực lượng quân đội mạnh với
vũ khí trang bị hiện đại, nhưng thực dân Pháp đã gặp rất nhiều khó khăn và tổn
thất trong việc đối phó với cuộc khởi nghĩa. Chính yếu tố gần gũi về mặt địa lí là
một cơ sở quan trọng để thiết lập nên tình cảm đoàn kết hữu nghị của hai dân tộc,
trong cuộc sống lao động sản xuất, cũng như trong chiến đấu.
Đông Bắc Lào và Tây Bắc - Việt Nam, là địa bàn cư trú của những dân tộc
ít người: người Mông, người Thái và nhiều dân tộc khác. . . Tuy có sự phân chia về
mặt địa giới, nhưng xét về nguồn gốc, các dân tộc trên lại có quan hệ họ hàng đồng
tộc với nhau. Vì vậy mà giữa họ có sự gần gũi về tình cảm, ngôn ngữ, văn hoá, tín
ngưỡng,. . . qua đó hình thành tinh thần tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Riêng với
người Mông – yếu tố chủ thể của cuộc khởi nghĩa, thì dòng họ và quan hệ dòng họ
là một đặc điểm văn hóa quan trọng, hiếm thấy ở các dân tộc khác. Tổ chức dòng
họ ở người Mông (với vai trò nổi bật của trưởng họ, các lễ thức chung của dòng
họ. . . ) giúp tạo nên sự cố kết chặt chẽ của những người cùng huyết thống. Chính
sự cố kết này, đã cho phép họ vượt lên sự phân tán về địa bàn cư trú và sự chia
cắt bởi ranh giới hành chính. Đây là một lý do quan trọng giải thích vì sao cuộc
30
Khởi nghĩa Chậu Phạ Pat Chay (1918 - 1922) - một biểu hiện sinh động...
khởi nghĩa Pat Chay lại huy động được đông đảo cộng đồng người Mông sinh sống
trên một địa bàn rộng lớn bao gồm các tỉnh Đông Bắc Lào và một số tỉnh Tây Bắc
Việt Nam tham gia. Ngoài ra, xuất phát từ tâm lý tín ngưỡng đặc thù của dân tộc
Mông là mong muốn khôi phục lại chữ viết riêng, cho nên khi lãnh đạo khởi nghĩa,
Pat Chay đã ra lời kêu gọi về chữ viết duy nhất cho dân tộc. Ông cho viết các ký
tự lạ lên những mảnh vải trắng hình vuông và đem phân phát cho các chiến binh
của mình với mục đích phát huy sức mạnh cộng đồng, đảm bảo cho thắng lợi trước
quân xâm lược Pháp. Như vậy, có thể nói rằng trong cuộc khởi nghĩa, lãnh tụ Pat
Chay đã biết kết hợp lòng yêu nước, yêu độc lập, tự do với những tình cảm dân tộc,
để tập hợp sức mạnh quần chúng của người Lào Xủng ở Lào, cũng như của nhân
dân hai nước trên vùng biên giới Lào - Việt ở phía Bắc.
Sự hình thành liên minh chiến đấu Lào - Việt, còn dựa trên truyền thống hữu
nghị, đoàn kết của hai dân tộc. Theo dòng lịch sử các triều đại phong kiến, có thể
nhận thấy nhiều minh chứng sinh động, nói tới sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau
giữa nhân dân hai nước. Trong khởi nghĩa Lam Sơn của nhân dân Đại Việt chống
sự đô hộ của nhà Minh (1418 - 1427), do Lê Lợi lãnh đạo, ở giai đoạn khởi đầu đầy
cam go, đã nhận được sự đùm bọc chở che của nhân dân các bộ tộc Lào. Giai đoạn
đầu thế kỉ XIX, khi nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Chậu Anụ, tiến hành cuộc
kháng chiến chống lại sự thống trị của phong kiến Xiêm, cũng nhận được sự hẫu
thuẫn của nhà Nguyễn ở Việt Nam, trên các phương diện ngoại giao và quân sự.
Truyền thống này, là một nhân tố quan trọng, tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa hai
dân tộc trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp.
Hơn nữa, trong giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, hai nước Việt
Nam và Lào, đều có chung một bối cảnh lịch sử như nhau. Giai đoạn này, cả hai dân
tộc cùng bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị vô cùng tàn bạo. Chính sách chia
để trị, không chỉ dừng lại trong phạm vi từng nước Lào, Việt Nam hay Campuchia
mà còn được mở rộng trên phạm vi các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Ở đây,
chúng thường dùng lính khố xanh, khố đỏ người Việt Nam, người Khơme đi đàn áp
nhân dân Lào và ngược lại. Chính sách chia để trị, đã làm cho mâu thuẫn giữa nhân
dân Lào và nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp thêm sâu sắc. Đồng thời, nó còn
dẫn tới sự xích lại gần nhau hơn nữa của nhân dân hai nước trong cuộc chiến đấu
chống kẻ thù chung.
Xuất phát từ tất cả những lí do trên, cuộc chiến đấu của hai dân tộc đã hình
thành một liên minh mang tính tự nhiên. Như vậy, ngay ở giai đoạn đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, khi chưa có sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương,
nhân dân hai nước Lào - Việt đã cùng sát cánh bên nhau chống lại ách thống trị và
nô dịch của thực dân Pháp.
31
Đinh Ngọc Ruẫn
3. Kết luận
Mặc dù, cuộc khởi nghĩa cuối cùng không giành được thắng lợi, nhưng nó góp
phần to lớn vào việc thức tỉnh tinh thần yêu nước của nhân dân Lào nói chung,
của người Lào Xủng nói riêng trong giai đoạn đầu chống thực dân Pháp xâm lược.
Cuộc khởi nghĩa, còn là một đòn giáng mạnh mẽ vào âm mưu chia để trị của thực
dân Pháp ở Đông Dương, và qua đó củng cố thêm tình đoàn kết chiến đấu của hai
dân tộc Lào - Việt trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Đảng Cộng Sản Đông
Dương ra đời (1930), đã phát huy những lợi thế sẵn có và đưa liên minh chiến đấu
Lào - Việt phát triển lên một tầm cao mới. Điều này đã được thực tế chứng minh,
qua thắng lợi của nhân dân hai nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1954),
chống Mĩ (1975), cũng như trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phan Gia Bền, Phạm Nguyên Long, Huỳnh Lứa, Đặng Bích Hà, 1978. Lược sử
nước Lào. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[2] Bộ Tư lệnh Quân khu II, 1990. Tây Bắc – Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 - 1954). Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
[3] Bộ Chỉ Huy Quân Sự Tỉnh Sơn La, 1995. Sơn La – Lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 – 1954). Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
[4] Phạm Văn Lực, 2003. Phong trào yêu nước chống Pháp ở Sơn La từ cuối thế kỉ
XIX đến 1945. LATS. ĐHSP Hà Nội.
[5] Cao Văn Lượng chủ biên, 2003. Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của
quân và dân khu Tây Bắc (1945 – 1954). Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[6] Lương Ninh chủ biên, 1991. Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á, tập II; Lịch sử
Lào. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Hà Nội.
[7] Nguyễn Hùng Phi, TS. Buasi Chalơnsúc, 2006. Lịch sử Lào hiện đại, Tập 1. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
ABSTRACT
Chau Pha Pat Chay Revolt (1918 – 1922)
- avid manifestation of united battle between
Laos and Vietnam in defeating French colonialism
During the end of the 19th century and the beginning of the 20th century, Lao
people rose up in arms against French colonialism many times, especially the fight
led by Chau Pha Pat Chay (1918 - 1922). Apart from awakening the national spirit,
the fight was the lofty and beautiful symbol of the unity between Lao and Vietnam
during the fight against the enemy before the birth of the Dong Duong communist
party.
32