Tóm tắt
Các lý thuyết và trường phái nghiên cứu huyền thoại đã phát triển mạnh vào thế kỷ XX và trở thành một
phương thức quan trọng của văn học hiện đại trong việc giải mã hệ thống biểu tượng được cô nén trong
tác phẩm văn học. Vì vậy, nghiên cứu huyền thoại đối với tác phẩm văn học chính là một công cụ hiệu
quả để gợi mở lại những giá trị tôn giáo, triết học, khoa học nghệ thuật trong lịch sử văn hóa. Tên tôi là
Đỏ là một tác phẩm ẩn chứa nhiều biểu tượng huyền thoại về nghệ thuật hội họa qua cách nhìn tôn giáo
trong bối cảnh của sự va chạm giữa các nền văn minh Đông Tây. Người viết trên phương pháp huyền
thoại tìm về giá trị của những biểu tượng cổ xưa của tác phẩm cũng chính là chạm đến những vấn đề
sống mà nhà văn Nobel - Ohan Pamuk gửi gắm trong tác phẩm.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khuynh hướng huyền thoại hóa trong tác phẩm Tên tôi là Đỏ của Orhan Pamuk, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 11 (36) - Thaùng 1/2016
87
Khuynh hướng huyền thoại hóa trong tác phẩm
Tên tôi là Đỏ của Orhan Pamuk
Trends mythologized in My name is Red of Orhan Pamuk
ThS. Trần Thị Diệu Hiền
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM
M.A. Tran Thi Dieu Hien
University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City
Tóm tắt
Các lý thuyết và trường phái nghiên cứu huyền thoại đã phát triển mạnh vào thế kỷ XX và trở thành một
phương thức quan trọng của văn học hiện đại trong việc giải mã hệ thống biểu tượng được cô nén trong
tác phẩm văn học. Vì vậy, nghiên cứu huyền thoại đối với tác phẩm văn học chính là một công cụ hiệu
quả để gợi mở lại những giá trị tôn giáo, triết học, khoa học nghệ thuật trong lịch sử văn hóa. Tên tôi là
Đỏ là một tác phẩm ẩn chứa nhiều biểu tượng huyền thoại về nghệ thuật hội họa qua cách nhìn tôn giáo
trong bối cảnh của sự va chạm giữa các nền văn minh Đông Tây. Người viết trên phương pháp huyền
thoại tìm về giá trị của những biểu tượng cổ xưa của tác phẩm cũng chính là chạm đến những vấn đề
sống mà nhà văn Nobel - Ohan Pamuk gửi gắm trong tác phẩm.
Từ khóa: Ohan Pamuk, huyền thoại, tranh tiểu họa, Tên tôi là Đỏ, biểu tượng
Abstract
The theory and research schools myth has grown into the twentieth century and became an important
method of modern literature in the decoded symbol system that is compressed in literary works. So,
study the myth of literary works is an effective tool to suggest the values of religion, philosophy,
science and art in cultural history. My Name is Red is a work inherently legendary symbol of the art of
painting through the view of religion in the context of the clash of civilizations between East and West.
Written on methods legendary look of the value of the ancient symbol of the works was also mentioned
the problems that writer living Nobel - Ohan Pamuk sending in the works.
Keywords: Ohan Pamuk, myth, painting and miniatures, My Name is Red, emblem
I. Giới thuyết về tác phẩm Tên tôi là
Đỏ và Huyền thoại học
1. Tác phẩm Tên tôi là Đỏ
Orhan Pamuk (1952) là nhà văn Thổ
Nhĩ Kỳ, sinh tại Istanbul. Ông được đánh
giá là một nhà văn mới mẻ và độc đáo nhất
trong văn chương đương đại. Phong cách
viết của ông thường được nhắc đến đó là
nghệ thuật không trung tâm, nhà văn đứng
ở vùng biên, người đứng giữa Đông và Tây.
Các tiểu thuyết nổi tiếng như: Cevdet Bey
và các con trai (1982), Sách đen (1990),
Tên tôi là Đỏ (2000), Tuyết (2002)... Năm
2006 ông đạt giải Nobel văn học.
88
Tiểu thuyết Tên tôi là Đỏ có dung
lượng gần 600 trang, bao gồm 59 chương,
kể từ 12 điểm nhìn. Tiểu thuyết mở đầu là
vụ án giết người mà tử thi là một nhà tiểu
họa. Mà nguyên nhân là một câu chuyện
vào cuối thế kỷ 16 nền tiểu họa Hồi giáo
(nghệ thuật vẽ tranh cực nhỏ để minh họa
cho văn bản - đó là cách vẽ theo cách nhìn
của thượng đế) suy tàn, nền hội họa
phương Tây (phong cách tả thực và luật
phối cảnh) bắt đầu xâm nhập vào thế giới
Hồi giáo. Năm 1591 Hoàng đế ra lệnh cho
Enishte thực hiện một cuốn sách ca ngợi
quốc gia mình, chứng minh sức mạnh, giàu
có của đức vua và phải được minh họa theo
phong cách Venice - lối vẽ theo luật phối
cảnh của phương Tây. Trong bối cảnh văn
hóa, quy định của Thổ Nhĩ Kì khi đó đây là
lối vẽ bị cấm vì báng bổ thánh Ahlla.
Enishte bí mật thực hiện cuốn sách bằng
cách giao cho các nhà tiểu họa mỗi người
một phần việc mà không ai được thấy tác
phẩm hoàn chỉnh. Chính vì muốn thấy
được tác phẩm hoàn thành mà kẻ sát nhân
đã giết một trong các nhà tiểu họa và giết
cả Enishte. Toàn bộ tác phẩm là cuộc truy
tìm thủ phạm giết người đồng thời là cuộc
truy vấn lớn đối với nền nghệ thuật của các
nhà tiểu họa tìm về ý nghĩa thiêng liêng
của nền tiểu họa.
2. Văn học Huyền thoại
Khuynh hướng “huyền thoại hóa” –
một hiện tượng văn học xuất hiện vào cuối
thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Thuật ngữ
“huyền thoại” (tương đương với “myth”
trong tiếng Anh, “mythe” trong tiếng Pháp,
“mif” trong tiếng Nga) vốn bắt nguồn từ
tiếng Hi lạp là “muthos”. Muthos được hiểu
là “lời, lời nói, câu chuyện, là truyền thuyết,
truyền thoại”[12,tr.3] Văn học huyền thoại
hóa là đặc trưng của văn học hiện đại.
Huyền thoại hóa với tính cách là một
biểu hiện của sáng tác văn học, phương
thức huyền thoại hóa trong sáng tác văn
học dùng để chỉ việc chuyển đổi các truyền
thống huyền thoại khiến cho tác phẩm có
được cái nhìn có tính chất huyền thoại về
hiện thực. Và việc giải mã các huyền thoại
mà tác giả sử dụng trong tác phẩm là công
việc khám phá các tầng ý nghĩa và sự cô
nén của các biểu tượng. Biểu tượng luôn
mang trong mình bản chất sống động, biến
hóa khôn lường bởi tính gợi nghĩa bất tận
của nó, luôn ứ tràn ra khỏi những dạng
thức, những cơ chế, những khái niệm,
những biểu hiện làm cột chống cho nó.
Trong tác phẩm Tên tôi là Đỏ phương
thức huyền thoại hóa thể hiện về mặt nghệ
thuật hội họa qua cách nhìn tôn giáo. Mục
đích của huyền thoại hóa trong tác phẩm
của Orhan Pamuk là xây dựng biểu trưng
tính phi lý: sự ngưng trệ của xã hội và ý
thức của con người, phản ánh tình trạng
con người đang đứng trước ngưỡng va
chạm của các nền văn minh (phương Đông
- phương Tây), sự bó hẹp, kìm hãm sự phát
triển văn hóa trong thời đại mới - thời đại
giao lưu, tiếp thu bản sắc văn hóa xuyên
quốc gia, thời đại con người tìm cái tôi của
chính mình đi vào nội dung, tranh luận hội
họa truyền thống (tiểu họa) hay hiện đại (tả
chân). Mà ở đây, người viết chủ yếu đi vào
phân tích chính là biểu tượng bức tranh
tiểu họa - biểu tượng văn hóa truyền thống
Hồi giáo.
II. Hệ thống biểu tượng trong tác phẩm
1. Nghệ thuật hội họa trong kinh Koran
Phong cách hội họa theo điểm nhìn
của thánh Ahlla. Trong mười điều răn của
đạo Do Thái cũng như Islam sau này (từ
năm 622 bắt đầu kỷ nguyên Hồi lịch tức
Hegiva) thì điều răn tức giới cấm đầu tiên
và quan trọng nhất là không được thờ ngẫu
tượng - từ đó có sự cấm kị thể hiện chân
89
dung con người dù qua điêu khắc hay hội
hoạ. Quan điểm Hồi giáo kinh điển cho
rằng hội họa phải minh họa những câu
chuyện quen thuộc. Chỉ khắc họa những gì
con mắt nhìn thấy trong thiên nhiên là một
hành vi báng bổ. Tranh tiểu họa vốn lan tới
Tây Á theo sự bành trướng của đế quốc
Mông Cổ vào thế kỷ 12-13, chịu ảnh
hưởng của hội họa Trung Hoa, nó không
theo luật phối cảnh vì được biện minh nếu
theo luật phối cảnh thì một thánh đường
Hồi giáo, hay nhà vua, hay thượng đế, khi
ở xa, sẽ nhỏ hơn một con chó, hay thậm
chí, nhỏ hơn một sợi lông chó. Và như thế
sẽ là phạm thượng hay báng bổ.
Tranh tiểu họa vẽ những yếu tính của
đối tượng. Tranh tiểu họa không chấp nhận
chữ ký, phong cách và mù là đỉnh cao của
tiểu họa. Khi một bậc thầy tiểu họa bị mù
lúc xế bóng người ta không chỉ xem đó là
dấu hiệu cho lòng quyết tâm của vị bậc
thầy vĩ đại đó mà còn ca ngợi nó như sự
thừa nhận của thượng đế đối với họ. Nếu
không mù thì họ sẽ tự làm mình mù, tập
tục kính trọng việc bắt chước mù hơn là
kiếp mù. Họa sĩ mù có thể tái hiện lại đúng
như bức bức họa thời còn sáng mắt nhưng
bức họa đó sẽ nhìn đơn giản hơn và thuần
khiết hơn trong khi bức họa thứ nhất sống
động và mạnh mẽ hơn. Vì trong ký ức của
người mù, cuộc sống được phơi bày sự đơn
giản hơn nhưng cũng làm giảm bớt sức
sống của nó hơn vì nó phục vụ cho trách
nhiệm duy nhất của việc vẽ tranh là hành
động tìm lại những ký ức của Allah và nhìn
thế giới như Người nhìn thế giới.
Vì vậy, vị thầy vĩ đại Bihzad trong tác
phẩm đã tự đâm mù mắt để tránh làm ô uế
hội họa của mình vì ham muốn của xưởng
vẽ hay bất kỳ vị vua nào khác. Và vị thầy
Osman cũng đã tự đâm mù mắt mình để
không bao giờ từ bỏ những phong cách và
phương pháp mà họ đã xây dựng qua việc
hy sinh bản thân mình cho nghệ thuật chỉ
vì quyền lực của một ông vua mới, thị hiếu
mới của một thời đại mới, nên họ dũng
cảm tự làm mù mình.
Bức tranh tiểu họa không chỉ nghiêm
khắc trong cách vẽ (của các nhà tiểu họa)
mà còn trong cách người ta nhìn về nó nhất
là cách nhìn của chính những nhà tiểu họa.
Một bức tranh tiểu họa cao quý như chính
tài năng đã đạt đến sự vĩ đại và tâm hồn đã
đạt đến một niềm tin nghệ thuật tuyệt đối.
2. Những mảnh ghép huyền thoại
Bức tranh không phải là một chủ thể
hoàn chỉnh, đơn nhất mà bức tranh là một
không gian để những hình ảnh, những
mảng màu, những sự vật lên tiếng nói. Đây
là một cách xây dựng nghệ thuật không có
trung tâm của tác giả. Mỗi đối tượng đều
có tiếng nói, có vị trí độc lập. Đó là những
cải tiến về mặt hình thức, còn về bản chất
mỗi nhân vật, mỗi điểm nhìn đều được trần
thuật gắn liền với tính hện thực: tạo nên độ
sâu, đặt mình vào từng vị trí khác nhau để
có cái nhìn toàn vẹn.
Trong các bức tranh tiểu họa, mỗi
hình tượng đều có tiếng nói của một nhân
vật, có số phận, tính cách đầy đủ và ý thức
một cách nhất quán, chắc chắn về mình và
những nhân vật khác. Chúng đều có những
câu chuyện, cách nhìn riêng của mình. Và
hơn hết là nghệ thuật tiểu họa tuân theo
quan điểm cách nhìn thế giới của thánh
Ahlla. Nghệ thuật tiểu họa không có tính tả
chân mà chỉ có tính ước lệ, không có cụ thể
mà chỉ có trừu tượng vì thế giới chỉ được
nhìn một lần qua cách nhìn của Đấng tối
cao. Hội họa không có quyền sáng tạo vì
sáng tạo là độc quyền của thượng đế. Mỗi
tác phẩm hội họa của đời sau là sự mô
phỏng lại đúng bức tranh của các bậc thầy.
Họ say sưa họa lại bức tranh những con
90
ngựa của Bihzad, những họa tiết trang trí
chưa bao giờ được đổi mới.
Trong đó có cái cây, con ngựa, đồng
tiền, Satan, thần chết, chó, màu đỏ... Và mỗi
tiếng nói của chúng là một cách nhìn, một
quan niệm, một sự mong đợi được thể hiện.
Cái cây: xuất hiện trong chương 10
"Tôi là một cái cây" của tác phẩm. Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới: Cây là một
trong những đề tài biểu tượng phong phú
nhất và phổ biến nhất, mang ý niệm về Vũ
trụ sống trong sự tái sinh liên tục. Trái với
một số biểu hiện bề ngoài và một số kết
luận vội vã, cây, và ngay cả cây thiêng,
không phải là vật thờ bái ở khắp nơi; nó là
một hình ảnh biểu trưng về một bản thể
vượt lên trên nó, chính cái bản thể ấy mới
có thể trở thành đối tượng của sự thờ bái.
Là biểu tượng của sự sống trong tiến hóa
liên tục, trong sự vươn lên về phía trời, cây
gợi nhớ toàn bộ hàm nghĩa biểu trưng của
chiều thẳng đứng. Mặt khác, nó cũng được
dùng để biểu thị tính tuần hoàn của biến
hóa vũ trụ: sự chết và sự tái sinh; đặc biệt
lá cây gợi ý niệm về sự tuần hoàn: cây cối
hàng năm trút lá rồi lại mọc lá mới, khắp
nơi cây được xem như một biểu tượng về
những quan hệ đã thiết lập giữa đất và trời.
Cái cây được xây dựng trong tác phẩm
như một chủ thể nhân vật đã lên tiếng bày
tỏ quan điểm của mình, quan điểm khách
quan của một đối tượng được đưa vào
tranh theo phương pháp vẽ tiểu họa. Cái
cây đưa vào tranh không là một cái cây
thực thể, mà là hình ảnh cái cây mang ý
nghĩa là cái cây. Ở đây ta cảm nhận được
sự tương cận với ý đồ mà Magritle vẽ bức
tranh cái tẩu thuốc lại chú thích dòng chữ
bên dưới "Voici n'est pas une pipe" (Đây
không phải cái tẩu thuốc).
Xuất hiện song song với cái cây trong
chương 10 là hình ảnh con ngựa bước ra từ
tranh vẽ để nhận định về chính mình. Khi
nói đến một con ngựa đẹp, nó không có
nghĩa là một con ngựa nào đó mà chỉ là con
ngựa được vẽ lại. Nhưng người họa sĩ hoặc
vẽ theo một khuôn mẫu hoặc vẻ theo ký ức
về con ngựa - con ngựa mà thượng đế
mường tượng chứ không thật sự nhìn
những con ngựa là khác nhau được nhìn
thấy. Những nghệ sĩ khẳng định rằng con
ngựa đẹp nhất là con ngựa mà những nhà
tiểu họa mù vẽ lại theo ký ức, phong cách
mới của những bậc thầy Tây vực không hề
báng bổ, mà hoàn toàn ngược lại, chúng là
cách hay nhất trong việc tuân theo tín
ngưỡng tôn trọng những sản phẩm được
khai sinh bởi Chúa và những sản phẩm
nghệ thuật được tái sinh trên những trang
họa qua cách nhìn của Chúa. Là những đối
tượng trong cùng một bức tranh, cùng được
vẽ theo một phong cách nhưng ở đây lại
tạo nên một tình huống phi lý nó chống lại
những ý kiến của nhau tạo nên các đối cực
trong chính một bức tranh. Và sự phi lí
được tạo bởi vì cả hai quan niệm trên đều
có lý. Nó nêu đúng yêu cầu của cách nhìn
về nghệ thuật mà Thánh Ahlla yêu cầu:
Một cái cây được vẽ yếu tính, một con
ngựa thực - theo cách nhìn của thượng đế
là con ngựa được nhìn thấy chứ không phải
được hồi lại.
Màu đỏ: chương 31 "Tôi là Đỏ" màu
sắc vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng của
tồn tại vật chất. Từ xa xưa, màu sắc luôn
hiện diện trong cuộc sống và trong nhận
thức của con người với vai trò là bệ đỡ cho
tư duy biểu tượng. Trong màu đỏ ấn chứa
tính hai chiều đối nghịch: sức sống, sự
nhiệt tình, hăng say của tuổi trẻ đối lập với
sự chết chóc (màu đỏ của máu). Cả hai nhà
họa sĩ mù đều có thể cảm nhận được màu
đỏ mà không biết chúng. Nhưng màu đỏ
không thể chỉ bằng cảm nhận.
91
"Ý nghĩa của màu đỏ là gì? - nhà tiểu
họa mù đã vẽ con ngựa theo ký ức hỏi.
Ý nghĩa của màu đỏ là ở chỗ nó có ở
đó trước mặt chúng ta và chúng ta thấy nó.
- Người kia nói - Anh không thể giải thích
màu đỏ với người không thấy được nó.
Để phủ nhận thượng đế, những kẻ
theo satan vẫn cho rằng thượng đế không
hữu hình với chúng ta - nhà họa sĩ mù vẽ
ngựa nói.
Nhưng Người hiện ra với những ai có
thể nhìn thấy, vì lý do này mà kinh Koran
phán rằng việc mù và thấy là không như
nhau." (Tên tôi là Đỏ, chương 31)
Đây là câu chuyện của màu đỏ. Màu
đỏ sẽ chẳng là gì đối với những họa sĩ
không bao giờ thấy chúng. Màu đỏ không
phải màu của hồi ức, đỏ không có những
sắc khác nhau mà chỉ là một màu đỏ duy
nhất. Và cái duy nhất ấy phải gắn liền với
cái trông thấy. Vậy "Đỏ" ở đây không còn
giới hạn là một trong những gam màu chủ
đạo trong màu sắc nữa. Đỏ trở thành hình
ảnh biểu tượng cho những điều tưởng
tượng, cho vấn đề sự tồn tại của nghệ thuật
và sự cảm nhận nghệ thuật tồn tại. Đó là
cuộc đấu tranh giữa vô hình và hữu hình.
Không có nghệ thuật nào là đơn nhất và
tuyệt đối. Bức tranh tổng hòa tất cả các chi
tiết, các màu sắc và đối tượng mà nó đưa
vào để thể hiện ý nghĩa chung nhất. Đi vào
tả chân thì đối tượng không phải được vẽ
ra mà được tạo ra với diện mạo cá thể.
Nghệ thuật không thể là cái cá thể, cái duy
nhất có thể chỉ ra được. Đi vào trừu tượng
thì đối tượng đóng băng, nó không còn là
cách nhìn mường tượng của đấng Ahlla
nữa mà phục vụ cho cái độc tôn.
Cùng với các mảnh ghép huyền thoại,
Orhan Pamuk đã dựng nên tận cùng các
các chiều kích đối chọi nhau không giới
hạn ở tư tưởng, nhân vật, cách xây dựng
tình tiết, nhân vật... Nó thể hiện mâu thuẫn,
dằn xé cực độ giữa các quan điểm để xuất
hiện như nó muốn có và như nó cần phải
có để hài hòa với các đối tượng khác. Và
cuộc chiến ấy không dừng lại, chúng phá
vỡ sự toàn nhất các quan niệm về tranh tiểu
họa vì nó đang nằm ở ranh giới, vùng giao
nhau giữa các quan niệm, cách nhìn tôn
giáo, thời đại, dân tộc, con người và con
người nghệ sĩ.
3. Biểu tượng "Trái cấm" thời mất Chúa
Huyền thoại về câu chuyện trái cấm
vườn Eden nay được tái sinh vào một câu
chuyện mới - câu chuyện về các bức tranh
tiểu họa thế kỷ XVI. Tranh tiểu họa mà nhà
vua yêu cầu để minh họa cho quyền lực
của nhà vua trở thành biểu tượng mang
tính huyền thoại "trái cấm". Nó là nguyên
nhân, bước tiến mang tính quyết định phá
vỡ thời kỳ đơn nhất để thiết lập những cái
nhìn mới, những quan hệ mới. Câu chuyện
trái cấm trong kinh Koran (chương 2 và
chương 20) thuật lại chuyện Adam và Evà
ăn trái cấm giống như trong sách Sáng Thế
Ký của đạo Do Thái, nói lên ADam và Eva
trải qua quá trình từ tối tăm đến hiểu biết,
thiện và ác, sống và chết trước và sau khi
chọn ăn trái cấm.
Trong khi toàn bộ câu chuyện của Tên
tôi là Đỏ đều xoay quanh bức tranh tiểu
họa - được vẽ theo phong cách mới do
chính nhà vua yêu cầu. Vì sự bí ẩn của bức
tranh (không ai được thấy bức tranh hoàn
thành) đã thôi thúc một trong các nhà tiểu
họa giết người. Và từ đây, cuộc truy tìm tội
ác, truy vấn nghệ thuật, cật vấn con đường
sáng tạo của các nhà tiểu họa được bắt đầu.
Trước khi nhìn thấy bức tranh và sau
khi thấy bức tranh là hai trạng thái hoàn
toàn khác nhau. Trước khi nhìn bức tranh
tiểu họa được vẽ theo phương pháp Tây
vực, các nhà tiểu họa luôn độc tôn một
92
phương pháp vẽ duy nhất mà các nhà tiểu
họa vĩ đại xưa truyền tụng. Không có gì
khác ngoài một cách vẽ được chấp nhận
của xã hội và thể hiện sự tôn sùng đức
thiên Chúa: đứng sau Người, cố mô phỏng
cái nhìn, sự mường tượng của Người về thế
giới. Tôn sùng các bậc thầy tiểu họa xưa vì
cách nhìn của họ gần với cách nhìn của
Chúa và những bức tranh là mẫu mực. Tuy
nhiên, khi biết bức tranh kia là có thực, họ
trỗi dậy những mối ngờ vực, sự tò mò, ham
muốn được trông thấy, được tiếp cận cách
nhìn mới như thể tìm thấy một chỗ đứng
của con người cá nhân, tài năng của mình.
Họ nghe nói về nó - một kỹ thuật mới và
khác hẳn những gì họ đã và đang làm đối
với nghệ thuật và nó dằn vật con người
đứng trước cái ngưỡng giữa truyền thống
và hiện đại, phong cách và phi cá nhân,
mắt sáng nhìn cuộc sống hiện thực như nó
vốn có hay mắt mù và tái hiện những gì nó
đã từng có. Cuộc đấu tranh này đi đến tội
ác giết người để được nhìn thấy bức tranh
và trả lời mọi nghi vấn nghệ thuật đó. Nó
mang màu sắc huyền thoại như Eva ăn trái
cấm trước sự thôi thúc của con rắn. Mọi
dồn nén, mọi câu hỏi và ẩn ức trong lòng
các nhà tiểu họa nào có được đi đến kết
quả như Adam, Eva: mắt ông bà sẽ mở ra,
và ông bà sẽ nên như những vị thần biết
điều thiện điều ác.
Sau khi nhìn thấy bức tranh, các nhà
tiểu họa đã rùng mình trước một kiệt tác vĩ
đại và lần đầu tiên họ thấy mình là trung
tâm của bức tranh. Nhưng đồng thời với
niềm hoan hỉ ấy họ trở lại với những dằn
vặt lựa chọn truyền thống mẫu mực nên có
ở bức tranh truyền thống hay chọn những
cách tân theo mong muốn. Với việc "sáng
mắt", "biết điều thiện điều ác" cũng đẩy họ
đến những nỗi lo sợ nghiệt ngã, không có
chỗ nào nữa ở Istanbul cho những nhà tiểu
họa bậc thầy. Nếu bị dồn đến phải lựa chọn
con đường theo người Tây vực thì sẽ bị
kiềm chế trong xã hội tôn thờ tranh tiểu họa
và trong chính con người hèn nhát chính
đáng của các nhà tiểu họa. Nếu cố gắng đạt
được phong cách và tính cách châu Âu thì
vẫn sẽ thất bại. Người Ottoman sẽ cười
nhạo. Còn theo nghệ thuật truyền thống thì
bản thân mình không muốn, cả nhà vua -
người thống trị không muốn.
Tất cả tình tiết trước và sau khi nhìn
thấy bức tranh đều đi vòng và ngược lại
chứ không đi theo tuyến tính như huyền
thoại trái cấm vốn có. Vượt qua những quy
định để nhìn thấy bức tranh (ăn trái cấm),
nhân vật đã bị trừng phạt làm mù mắt. Mù
mắt là cái hoàn kết nhưng lại có ý nghĩa
quay về khởi điểm và đã biến chuyển. Đó
là công cuộc tìm kiếm chính mình, tìm
kiếm sự thật nhưng mục đích chẳng bao
giờ đạt được, sự thật ngày càng xa rời,
càng đi vào những mê cung không thể vượt
thoát được. Và trong mê cung đó, quan
trọng hơn hết không phải không tìm thấy
lối ra mà là họ đã quá sợ hãi, mất đi niềm
tin, hoài nghi tất cả nên trước mặt luôn chỉ
là bức tường. Họ đánh mất mình một phần
vì nỗi sợ hãi từ bên trong và mất đi niềm
tin đối với thế giới bên ngoài .
Các họa sĩ hay chính con người nói
chung đi tìm chính mình nhưng tất cả như
bị sắp đặt sẵn, tất cả mọi người đều bị đóng
trong khuôn trong cách nhìn của tôn giáo,
của người có quyền lực và của người khác.
Họ không thể biện minh, không bào chữa
được cho số phận của mình, những bức
tranh vẽ theo phong cách các bậc thầy châu
Âu sẽ biến họ ngang hàng kẻ p