Trong loạt bài này chúng ta sẽ bắt đầu hoàn toàn với nội dung cơ bản về mạng máy tính và hướng tới xây dựng một mạng thiết thực. Mở đầu là một số thảo luận về một số thành phần mạng khác nhau và chức năng của chúng. Bạn đã từng thấy nhiều bài viết hướng đến mục đích dành cho các quản trị viên, những người ít nhất có một số kinh nghiệm nào đó. Còn ở đây sẽ chỉ là những phần cơ sở nhất hướng đến đối tượng là những người mới bắt đầu làm quen với mạng. Trong bài đầu tiên này chúng ta sẽ thảo luận một số thiết bị mạng khác nhau và khả năng làm được
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 150 trang
150 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2378 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiến thức cơ bản về mạng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kiến thức cơ bản về mạng: Phần 1 - Các thiết bị phần cứng mạng 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Trong loạt bài này chúng ta sẽ bắt đầu hoàn toàn với nội dung cơ bản về 
mạng máy tính và hướng tới xây dựng một mạng thiết thực. Mở đầu là 
một số thảo luận về một số thành phần mạng khác nhau và chức năng 
của chúng. 
Bạn đã từng thấy nhiều bài viết hướng đến mục đích dành cho các quản trị 
viên, những người ít nhất có một số kinh nghiệm nào đó. Còn ở đây sẽ chỉ là 
những phần cơ sở nhất hướng đến đối tượng là những người mới bắt đầu làm 
quen với mạng. Trong bài đầu tiên này chúng ta sẽ thảo luận một số thiết bị 
mạng khác nhau và khả năng làm được những gì của chúng. 
Network Adapter (Bộ điều hợp mạng) 
Thành phần đầu tiên nên đề cập tới trong số các thiết bị phần cứng mạng là 
bộ điều hợp mạng (network adapter). Thiết bị này còn được biết đến với 
nhiều tên khác nhau như network card (card mạng), Network Interface Card 
(card giao diện mạng), NIC. Tất cả đều là thuật ngữ chung của cùng một 
thiết bị phần cứng. Công việc của card mạng là gắn một cách vật lý máy tính 
để nó có thể tham gia hoạt động truyền thông trong mạng đó. 
Điều đầu tiên bạn cần biết đến khi nói về card mạng là nó phải được ghép 
nối phù hợp với phương tiện truyền đạt mạng (network medium). Network 
medium chính là kiểu cáp dùng trên mạng. Các mạng không dây là một 
mảng khác và sẽ được thảo luận chi tiết trong một bài riêng sau. 
Để card mạng ghép nối phù hợp với phương tiện truyền đạt mạng là một vấn 
đề thực sự vì chúng đòi hỏi phải đáp ứng được lượng lớn tiêu chuẩn cạnh 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
tranh bắt buộc. Chẳng hạn, trước khi xây dựng một mạng và bắt đầu mua 
card mạng, dây cáp, bạn phải quyết định xem liệu nên dùng Ethernet, 
Ethernet đồng trục, Token Ring, Arcnet hay một tiêu chuẩn mạng nào khác. 
Mỗi tiêu chuẩn mạng có độ dài và nhược điểm riêng. Phác hoạ ra cái nào 
phù hợp nhất với tổ chức mình là điều hết sức quan trọng. 
Ngày nay, hầu hết công nghệ mạng được đề cập đến ở trên đều nhanh chóng 
trở nên mai một. Bâu giờ chỉ có một kiểu mạng sử dụng dây nối còn được 
dùng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là Ethernet. Bạn có thể xem phần 
minh hoạ card mạng Ethernet trong ví dụ hình A dưới đây. 
Hình 1: Card Ethernet 
Các mạng Ethernet hiện đại đều sử dụng cáp đôi xoắn vòng 8 dây. Các dây 
này được sắp xếp theo thứ tự đặc biệt và đầu nối RJ-45 được gắn vào phần 
cuối cáp. Cáp RJ-45 trông giống như bộ kết nối ở phần cuối dây điện thoại, 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
nhưng lớn hơn. Các dây điện thoại dùng bộ kết nối RJ-11, tương phản với bộ 
kết nối RJ-45 dùng trong cáp Ethernet. Bạn có thể thấy ví dụ một cáp 
Ethernet với đầu nối RJ-45 trong hình B. 
Hình 2: Cáp Ethernet với một đầu kết nối RJ-45 
Hub và Switch 
Như bạn đã thấy ở trên, máy tính dùng card mạng để gửi và nhận dữ liệu. 
Dữ liệu được truyền qua cáp Ethernet. Tuy nhiên, thông thường bạn không 
thể chỉ chạy một cáp Ethernet giữa hai PC để gọi đó là một mạng. 
Với thời đại của khả năng truy cập Internet tốc độ cao ngày nay, chắc chắn 
bạn thường nghe nói đến thuật ngữ "broadband" (băng thông rộng). Băng 
thông rộng là kiểu mạng trong đó dữ liệu được gửi và nhận qua cùng một 
dây, còn ở Ethernet thì dùng hình thức truyền thông Baseband. Baseband sử 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
dụng các dây riêng trong việc gửi và nhận dữ liệu. Điều này có nghĩa là nếu 
một máy tính đang gửi dữ liệu qua một dây cụ thể bên trong cáp Ethernet thì 
máy tính đang nhận dữ liệu cần một dây khác được định hướng lại tới cổng 
nhận của nó. 
Bạn có thể xây dựng mạng cho hai máy tính theo cách này mà người ta 
thường gọi là hình thức cáp chéo. Cáp chéo đơn giản là một cáp mạng có các 
dây gửi và nhận ngược nhau tại một điểm cuối để các máy tính có thể được 
liên kết trực tiếp với nhau. 
Vấn đề hạn chế khi dùng cáp mạng chéo là bạn không thể thêm hay bớt một 
máy tính khác nào ngoài hai máy đã được kết nối. Do đó tốt hơn so với cáp 
chéo, hầu hết mọi mạng đều sử dụng cáp Ethernet thông thường không có 
các dây gửi và nhận ngược nhau ở cuối đầu nối. 
Tất nhiên các dây gửi và nhận phải ngược nhau ở một số điểm nào đó để quá 
trình truyền thông được thực hiện thành công. Đây là công việc của một hub 
hoặc switch. Hub cũng đang trở nên lỗi thời nhưng chúng ta vẫn nên nói đến 
chúng. Vì hiểu về hub sẽ giúp bạn bạn dễ dàng hơn nhiều khi nói tới switch. 
Có một số kiểu hub khác nhau nhưng thông thường nói đến hub tức là nói 
đến một cái hộp với một bó cổng RJ-45. Mỗi máy tính trong mạng sẽ được 
kết nối tới một hub thông qua cáp Ethernet. Bạn có thể thấy một hub có hình 
dáng như trong hình C. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
 Hình 3: Hub là thiết bị hoạt động như một điểm kết nối trung tâm 
cho các máy tính trong một mạng. 
Hub có hai nhiệm vụ khác nhau. Nhiệm vụ thứ nhất là cung cấp một điểm 
kết nối trung tâm cho tất cả máy tính trong mạng. Mọi máy tính đều được 
cắm vào hub. Các hub đa cổng có thể được đặt xích lại nhau nếu cần thiết để 
cung cấp thêm cho nhiều máy tính. 
Nhiệm vụ khác của hub là sắp xếp các cổng theo cách để nếu một máy tính 
thực hiện truyền tải dữ liệu, dữ liệu đó phải được gửi qua dây nhận của máy 
tính khác. 
Ngay bây giờ có thể bạn sẽ tự hỏi, làm sao dữ liệu có thể đến được đúng 
đích cần đến nếu nhiều hơn hai máy tính được kết nối vào một hub? Bí mật 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
nằm trong card mạng. Mỗi card Ethernet đều được cung cấp một địa chỉ vật 
lý MAC (Media Access Control) duy nhất. Khi một máy tính trong mạng 
Ethernet truyền tải dữ liệu qua mạng có các máy PC kết nối với một hub, 
thực tế dữ liệu được gửi tới mọi máy có trong mạng. Tất cả máy tính đều 
nhận dữ liệu, sau đó so sánh địa chỉ đích với địa chỉ vật lý MAC của nó. Nếu 
khớp, máy tính sẽ biết rằng nó chính là người nhận dữ liệu, nếu không nó sẽ 
lờ dữ liệu đi. 
Như bạn có thể thấy, khi một máy tính được kết nối qua một hub, mọi gói 
tin đều được gửi tới tất cả máy tính trong mạng. Vấn đề là máy tính nào 
cũng có thể gửi thông tin đi tại bất cứ thời gian nào. Bạn đã từng thấy một 
cuộc họp mà trong đó tất cả thành viên tham dự đều bắt đầu nói cùng một 
lúc? Vấn đề của kiểu mạng này chính là như thế. 
Khi một máy tính cần truyền dữ liệu, nó kiểm tra xem liệu có máy nào khác 
đang gửi thông tin tại cùng thời điểm đó không. Nếu đường truyền rỗi, nó 
truyền các dữ liệu cần thiết. Nếu đã có một một máy khác đang sử dụng 
đường truyền, các gói tin của dữ liệu đang được chuyển qua dây sẽ xung đột 
và bị phá huỷ (đây chính là lý do vì sao kiểu mạng này đôi khi được gọi là 
tên miền xung đột). Cả hai máy tính sau đó sẽ phải chờ trong một khoảng 
thời gian ngẫu nhiên và cố gắng truyền lại các gói tin đã bị phá huỷ của 
mình. 
Số lượng máy tính trên tên miền xung đột ngày càng tăng khiến số lượng 
xung đột cũng tăng. Do số lượng xung đột ngày càng tăng nên hiệu quả của 
mạng ngày càng giảm. Đó là lý do vì sao bây giờ gần như switch đã thay thế 
toàn bộ hub. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
 Một switch (bạn có thể xem trên hình D), thực hiện tất cả mọi nhiệm vụ 
giống như của một hub. Điểm khác nhau chỉ là ở chỗ, khi một PC trên mạng 
cần liên lạc với máy tính khác, switch sẽ dùng một tập hợp các kênh logic 
nội bộ để thiết lập đường dẫn logic riêng biệt giữa hai máy tính. Có nghĩa là 
hai máy tính hoàn toàn tự do để liên lạc với nhau mà không cần phải lo lắng 
về xung đột. 
Hình 4: Switch trông giống hệt như hub nhưng hoạt động khác 
hơn nhiều. 
Switch thực sự nâng cao được đáng kể hiệu quả của mạng. Bởi chúng loại 
trừ xung đột và còn nhiều hơn thế, chúng có thể thiết lập các đường dẫn 
truyền thông song song. Chẳng hạn khi máy tính A đang liên lạc với máy 
tính B thì không có lý do gì để máy tính C không đồng thời liên lạc với máy 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
tính D. Trong một tên miền xung đột (collision domain), các kiểu truyền 
thông song song này là không thể bởi vì chúng sẽ dẫn đến xung đột. 
Kết luận 
Trong bài này chúng ta đã thảo luận về một số thành phần cơ bản để tạo một 
mạng đơn giản. Trong phần hai chúng ta vẫn sẽ tiếp tục quan tâm đến các 
thiết bị phần cứng mạng cơ bản. Xin mời các bạn tiếp tục đón xem ở phần 
sau. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Kiến thức cơ bản về mạng: Phần 2 – Router 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Đây là phần tiếp theo sau bài mở đầu về các thiết bị phần cứng mạng. 
Trong phần này chúng ta sẽ thảo luận nội dung chi tiết của thiết bị 
mạng quan trọng nhất: router. 
Cho dù là người mới bắt đầu làm quen với mạng nhưng chắc hẳn bạn đã 
từng nghe nói đến router. Các kết nối Internet băng thông rộng, sử dụng 
modem cáp hay modem DSL luôn đòi hỏi cần phải có router. Nhưng công 
việc của router không phải là cung cấp sự nối kết Internet mà là chuyển các 
gói dữ liệu từ mạng này tới mạng khác. Có nhiều kiểu router, từ đơn giản 
đến phức tạp. Các router bình dân thường được dùng cho kết nối Internet gia 
đình, còn nhiều router có mức giá “kinh khủng” thường được các đại gia là 
những gã khổng lồ ưa chuộng. Song, cho dù đắt hay rẻ, đơn giản hay phức 
tạp thì mọi router đều hoạt động với các nguyên tắc cơ bản như nhau. 
Ở đây, chúng ta sẽ tập trung vào các router đơn giản với giá thành thấp, chủ 
yếu được dùng để nối kết một máy tính vào mạng Internet băng thông rộng. 
Bởi vì đối tượng của bài này là những người mới bắt đầu làm quen mới 
mạng. Và tất nhiên sẽ dễ dàng hơn nhiều khi bắt đầu với những gì đã từng 
quen thuộc cho hầu hết mọi người thay vì động đến sự phức tạp của router 
dùng trong các tập đoàn lớn. Nếu bạn đã có hiểu biết cơ bản về router và 
muốn có kiến thức chuyên sâu hơn, bạn sẽ tìm được cái mình cần trong một 
bài khác mà có dịp chúng tôi sẽ giới thiệu với các bạn sau. 
Như đã nói ở trên, công việc của một router là chuyển các gói dữ liệu từ 
mạng này tới mạng khác. Định nghĩa này có vẻ lạ trong ngữ cảnh các máy 
tính đã được kết nối với đường truyền Internet băng thông rộng. Nhưng thực 
tế bạn nên biết mạng là một tập hợp lớn với các mạng con khác ở bên trong. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
 Vậy, nếu công việc của một router là chuyển lưu lượng giữa hai mạng, trong 
đó một mạng là Internet thì mạng kia ở đâu? Trong trường hợp cụ thể này 
chính là máy tính được kết nối tới router. Nó được cấu hình thực sự như một 
mạng đơn giản. 
Để hình dung rõ hơn, bạn có thể xem ảnh minh hoạ trong Hình A và B. Hình 
A là mặt trước của một router băng thông rộng 3COM, còn hình B là mặt 
sau của nó. 
Hình A: Mặt trước của router băng thông rộng (broadband) 3COM 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
 Hình B: Router Internet băng thông rộng gồm một tập hợp các 
cổng RJ-45 giống như một hub hay switch 
Như bạn có thể thấy trên hình, thực sự không có điểm nổi bật đặc biệt nào 
trong mặt trước của router. Sở dĩ chúng tôi vẫn đưa ra hình ảnh cụ thể của nó 
nhằm giúp các bạn, những người chưa quen thuộc với thiết bị này có thể biết 
được một router trông như thế nào. Hình B xem chừng có vẻ thú vị hơn. 
Nhìn vào hình B bạn sẽ thấy có ba tập hợp cổng ở mặt sau router. Cổng bên 
trái nhất là nơi điện nguồn được nối với router. Ở giữa là một cổng RJ-45 
dùng cho việc kết nối mạng từ xa. Trong trường hợp cụ thể này, router được 
dùng để cung cấp kết nối Internet. Cổng giữa chủ yếu được dùng để kết nối 
router với một modem cáp hay modem DSL. Các modem này sẽ cung cấp 
kết nối thực tới Internet. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
 Còn tập hợp ở bên phải gồm bốn cổng RJ-45. Nếu bạn xem lại phần đầu của 
loạt bài này bạn sẽ thấy các hub và switch cũng gồm số lượng lớn các nhóm 
cổng RJ-45. Trong trường hợp của hub hay switch, các cổng RJ-45 được 
dùng để cung cấp kết nối tới các máy tính trên mạng. 
Ở router, các cổng đều hoạt động y như nhau. Router trong ví dụ ở đây có 
một switch bốn cổng dựng sẵn. Công việc của một router là chuyển các gói 
tin từ mạng này tới mạng khác. Ở trên chúng ta đã giải thích trong trường 
hợp của router băng thông rộng, Internet là một mạng còn máy tính đóng vai 
trò là một mạng thứ hai. Lý do vì sao một máy tính đơn lẻ lại có thay thế 
như một mạng tổng thể là do router không coi PC là một thiết bị độc lập. 
Router xem PC như một nút mạng. Như bạn có thể thấy trên hình B, router 
cụ thể này có thể cung cấp thực sự một mạng bốn máy tính. Hầu hết người 
dùng gia đình đều sử dụng kiểu cấu hình chỉ cần cắm một PC vào router. Cụ 
thể hơn, kiểu mạng này định tuyến các gói dữ liệu giữa một mạng nhỏ (ngay 
cả khi mạng đó chỉ có một máy tính đơn) và Internet (được xem như là mạng 
thứ hai). 
Quá trình định tuyến 
Để hiểu hoạt động định tuyến được thực hiện như thế nào, đầu tiên bạn phải 
biết một chút về cách thức hoạt động của giao thức TCP/IP. 
Mọi thiết bị kết nối tới mạng TCP/IP đều có một địa chỉ IP duy nhất giới hạn 
trong giao diện mạng của nó. Địa chỉ IP là một dãy bốn số riêng phân tách 
nhau bởi các dấu chấm. Ví dụ một địa chỉ IP điển hình có dạng: 192.168.0.1. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
 Ví dụ dễ hiểu nhất khi nói về IP là địa chỉ nhà. Địa chỉ nhà thông thường 
luôn có số nhà và tên phố. Số nhà xác định cụ thể vị trí ngôi nhà trên phố đó. 
Địa chỉ IP cũng hoạt động tương tự như vậy. Nó gồm mã số địa chỉ mạng và 
mã số thiết bị. So sánh với địa chỉ nhà bạn sẽ thấy địa chỉ mạng giống như 
tên phố còn mã số thiết bị giống như số nhà vậy. Địa chỉ mạng chỉ mạng cụ 
thể thiết bị đang tham gia trong nó còn mã số thiết bị thì cung cấp cho thiết 
bị một nhận dạng trên mạng. 
Vậy kết thúc của địa chỉ mạng và khởi đầu của mã số thiết bị ở đâu? Đây là 
công việc của một subnet mask. Subnet mask sẽ “nói” với máy tính vị trí 
cuối cùng của địa chỉ mạng và vị trí đầu tiên của số thiết bị trong địa chỉ IP. 
Hoạt động mạng con có khi rất phức tạp. Bạn có thể tham khảo chi tiết hơn 
trong một bài khác mà có dịp chúng tôi sẽ giới thiệu sau. Còn bây giờ hãy 
quan tâm đến những thứ đơn giản nhất, xem xét một subnet mask rất cơ bản. 
Subnet mask thoạt nhìn rất giống với địa chỉ IP vì nó cũng có 4 con số định 
dạng theo kiểu phân tách nhau bởi các dấu chấm. Một subnet mask điển hình 
có dạng: 255.255.255.0. 
Trong ví dụ cụ thể này, ba số dầu tiên (gọi là octet) đều là 255, con số cuối 
cùng là 0. Số 255 chỉ ra rằng tất cả các bit trong vị trí tương ứng của địa chỉ 
IP là một phần của mã số mạng. Số 0 cuối cùng ám chỉ không có bit nào 
trong vị trí tương ứng của địa chỉ IP là một phần của địa chỉ mạng. Do đó 
chúng thuộc về mã số thiết bị. 
Nghe có vẻ khá lộn xộn, bạn sẽ hiểu hơn với ví dụ sau. Tưởng tượng bạn có 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
một máy tính với địa chỉ IP là 192.168.1.1 và mặt nạ mạng con là: 
255.255.255.0. Trong trường hợp này ba octet đầu tiên của subnet mask đều 
là 255. Điều này có nghĩa là ba octet đầu tiên của địa chỉ IP đều thuộc vào 
mã số mạng. Do đó vị trí mã số mạng của địa chỉ IP này là 192.168.1.x. 
Điều này là rất quan trọng vì công việc của router là chuyển các gói dữ liệu 
từ một mạng sang mạng khác. Tất cả các thiết bị trong mạng (hoặc cụ thể là 
trên phân đoạn mạng) đều chia sẻ một mã số mạng chung. Chẳng hạn, nếu 
192.168.1.x là số mạng gắn với các máy tính kết nối với router trong hình B 
thì địa chỉ IP cho bốn máy tính viên có thể là: 
o 192.168.1.1 
o 192.168.1.2 
o 192.168.1.3 
o 192.168.1.4 
Như bạn thấy, mỗi máy tính trên mạng cục bộ đều chia sẻ cùng một địa chỉ 
mạng, còn mã số thiết bị thì khác nhau. Khi một máy tính cần liên lạc với 
máy tính khác, nó thực hiện bằng cách tham chiếu tới địa chỉ IP của máy 
tính đó. Chẳng hạn, trong trường hợp cụ thể này, máy tính có địa chỉ 
192.168.1.1 có thể gửi dễ dàng các gói dữ liệu tới máy tính có địa chỉ 
192.168.1.3 vì cả hai máy này đều là một phần trong cùng một mạng vật lý. 
Nếu một máy cần truy cập vào máy nằm trên mạng khác thì mọi thứ sẽ khác 
hơn một chút. Giả sử rằng một trong số người dùng trên mạng cục bộ muốn 
ghé thăm website www.brienposey.com, một website nằm trên một server. 
Giống như bất kỳ máy tính nào khác, mỗi Web server có một địa chỉ IP duy 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
nhất. Địa chỉ IP cho website này là 24.235.10.4. 
Bạn có thể thấy dễ dàng địa chỉ IP của website không nằm trên mạng 
192.168.1.x. Trong trường hợp này máy tính đang cố gắng tiếp cận với 
website không thể gửi gói dữ liệu ra ngoài theo mạng cục bộ, vì Web server 
không phải là một phần của mạng cục bộ. Thay vào đó máy tính cần gửi gói 
dữ liệu sẽ xem xét đến địa chỉ cổng vào mặc định. 
Cổng vào mặc định (default gateway) là một phần của cấu hình TCP/IP 
trong một máy tính. Đó là cách cơ bản để nói với máy tính rằng nếu không 
biết chỗ gửi gói dữ liệu ở đâu thì hãy gửi nó tới địa chỉ cổng vào mặc định 
đã được chỉ định. Địa chỉ của cổng vào mặc định là địa chỉ IP của một 
router. Trong trường hợp này địa chỉ IP của router được chọn là 192.168.1.0 
Chú ý rằng địa chỉ IP của router chia sẻ cùng một địa chỉ mạng như các máy 
khác trong mạng cục bộ. Sở dĩ phải như vậy để nó có thể truy cập tới các 
máy trong cùng mạng. Mỗi router có ít nhất hai địa chỉ IP. Một dùng cùng 
địa chỉ mạng của mạng cục bộ, còn một do ISP của bạn quy định. Địa chỉ IP 
này dùng cùng một địa chỉ mạng của mạng ISP. Công việc của router khi đó 
là chuyển các gói dữ liệu từ mạng cục bộ sang mạng ISP. ISP của bạn có các 
router riêng hoạt động cũng giống như mọi router khác, nhưng định tuyến 
đường đi cho gói dữ liệu tới các phần khác của Internet. 
Kết luận 
Như bạn có thể thấy, router là thành phần mạng cực kỳ quan trọng. Không 
có router, sự nối kết giữa các mạng (chẳng hạn như Internet) là không thể. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Trong phần ba của loạt bài này chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn về nội dung 
của giao thức TCP/IP. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Kiến thức cơ bản về mạng: Phần 3 - DNS Server 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Đây là phần tiếp theo của loạt bài Kiến thức cơ bản dành cho những 
người mới bắt đầu làm quen và tìm hiểu về mạng máy tính. Sau hai bài 
giới thiệu Hub và Switch, Router, nội dung của bài này đề cập đến hoạt 
động của các server DNS (hệ thống tên miền). 
Đây cũng là phần cuối cùng chúng tôi nói đến cách các máy tính trong một 
phân đoạn mạng chia sẻ vùng địa chỉ IP chung như thế nào. 
Như chúng ta đã biết, khi một máy tính cần truy cập thông tin trên một máy 
nằm ở mạng khác hay phân đoạn mạng khác, nó cần đến sự trợ giúp của 
router. Router sẽ chuyển các gói dữ liệu cần thiết từ mạng này sang mạng 
khác (chẳng hạn như Internet). Nếu bạn đã từng đọc phần hai, chắc hẳn bạn 
nhớ, chúng tôi có đưa ra một ví dụ tạo một tham chiếu đến địa chỉ IP kết hợp 
với một website. Để có thể truy cập vào website này, trình duyệt Web của 
bạn phải biết địa chỉ IP của website. Sau đó trình duyệt cung cấp địa chỉ cho 
router, router sẽ xác định đường đi tới mạng khác và yêu cầu các gói dữ liệu 
tới máy đích phù hợp. Mỗi website đều có một địa chỉ IP nhưng bạn có thể 
ghé thăm các website này hằng ngày mà không cần quan tâm đến dãy con số 
đó của nó. Trong bài này chúng tôi sẽ chỉ cho bạn thấy lý do vì sao có thể 
thực hiện được. 
Địa chỉ IP cũng giống như địa chỉ nhà vậy. Nó gồm có vị trí mạng (là dãy số 
hiệu chỉ phân đoạn mạng máy tính đang hoạt động trong đó), tương tự như 
tên phố; và vị trí thiết bị (xác định một máy tính cụ thể trong mạng), tương 
tự như số nhà. Biết về địa chỉ IP là yêu cầu cần thiết cho hoạt động truyền 
thông cơ sở TCP/IP giữa hai máy tính. 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Khi bạn mở một trình duyệt Web và nhập tên website (được biết đến như là 
tên miền hay đường dẫn URL(Universal Resource Locator - bộ định vị vị trí 
tài nguyên chung))