Giới thiệu
Trong các chuyến thăm của mình đến khu nuôi tôm ở Peru, Colombia,
Guatemala, Tiến sĩ Chalor Limsuwan đã đưa ra một số kiến nghị dựa trên
kinh nghiệm của mình trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) tại Thái Lan.
Dưới đây là tóm tắt các bài thuyết trình tại Peru, Colombia, và Goa-tê-ma-la,
2/2009.
Mật độ thả ở Thái Lan hiện nay là 90-120 con/m², với tỷ lệ khuếch tán oxy
18-36 HP/ha. Thái Lan xuất khẩu 85% lượng tôm được sản xuất. Do tình
trạng bất ổn nền kinh tế thế giới hiện nay, cả nước tự nguyện sẽ giảm sản
lượng tôm khoảng 20%, từ 500.000 tấn xuống còn 400.000 tấn trên 70.000
hecta, với 2-3 chu kì mỗi năm. Thái Lan đã thực hiện một chiến lược sản xuất
dựa trên thu hoạch một phần cho cả hai loại 12 g và 18 g, với việc thu hoạch
cuối khi tôm đạt 24 g. Chính phủ Thái Lan đã lập bản đồ các vùng sản xuất để
việc thu hoạch được tổ chức trên cơ sở riêng mỗi khu vực, đáp ứng tốt nhất
tính thời vụ/kích thước cỡ mong muốn của Mỹ. Dựa trên chiến lược này, các
nhà sản xuất đã thực hiện công tác quản lý kích cỡ tôm rất tốt, kết quả là lợi
nhuận tăng lên.
12 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm nuôi tôm thẻ chân trắng tại Thái Lan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh Nghiệm Nuôi Tôm
Thẻ Chân Trắng Tại
Thái Lan
Giới thiệu
Trong các chuyến thăm của mình đến khu nuôi tôm ở Peru, Colombia,
Guatemala, Tiến sĩ Chalor Limsuwan đã đưa ra một số kiến nghị dựa trên
kinh nghiệm của mình trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) tại Thái Lan.
Dưới đây là tóm tắt các bài thuyết trình tại Peru, Colombia, và Goa-tê-ma-la,
2/2009.
Mật độ thả ở Thái Lan hiện nay là 90-120 con/m², với tỷ lệ khuếch tán oxy
18-36 HP/ha. Thái Lan xuất khẩu 85% lượng tôm được sản xuất. Do tình
trạng bất ổn nền kinh tế thế giới hiện nay, cả nước tự nguyện sẽ giảm sản
lượng tôm khoảng 20%, từ 500.000 tấn xuống còn 400.000 tấn trên 70.000
hecta, với 2-3 chu kì mỗi năm. Thái Lan đã thực hiện một chiến lược sản xuất
dựa trên thu hoạch một phần cho cả hai loại 12 g và 18 g, với việc thu hoạch
cuối khi tôm đạt 24 g. Chính phủ Thái Lan đã lập bản đồ các vùng sản xuất để
việc thu hoạch được tổ chức trên cơ sở riêng mỗi khu vực, đáp ứng tốt nhất
tính thời vụ/kích thước cỡ mong muốn của Mỹ. Dựa trên chiến lược này, các
nhà sản xuất đã thực hiện công tác quản lý kích cỡ tôm rất tốt, kết quả là lợi
nhuận tăng lên.
Chuẩn bị đáy ao mặc cho nồng độ chất hữu cơ cao
Trong các khu vực chất hữu cơ cấu thành (chỉ ở các kênh và các góc) natri
nitrat được áp dụng theo tỷ lệ là 7,5 kg/ha. Sau mỗi chu kỳ sản xuất thông
thường, khuyến khích việc áp dụng tỷ lệ 2,5 kg natri nitrat/ha và tỷ lệ 60 kg
canxi hydroxit/ha.
Trên các đáy ao giàu cất hữu cơ và nhiều cát, nên nén chặt đất bằng cách sử
dụng một ống nhựa PVC dài 8-inch đầy cát bên trong sau khi làm đất canh
tác. Canh tác đất đáy ao nên được thực hiện khi đất chứa một độ ẩm nhất định
để khuyến khích các vi khuẩn hoạt động.
Chất lượng hậu ấu trùng
Chất lượng hậu ấu trùng (post-larva - PL) tốt là ưu tiên hàng đầu ở Thái Lan.
Ấu trùng phải đạt 10g trong 60 ngày, 17g trong 90 ngày, hoặc 25g trong vòng
120 ngày, tất cả với mật độ thả 90-120 PL/m2, với tỷ lệ sống 80%, ở nhiệt độ
28-31°C (từ tháng Hai tới tháng Mười).
Lưu ứng động tích cực là một bài kiểm tra kiếm soát chất lượng ấu trùng rất
tốt. Trong khi nước xoay trong các công ten nơ kiểm tra, những phần còn lại
ở giữa được coi là ấu trùng kém chất lượng.
Độ mặn cũng ảnh hưởng lớn tới giai đoạn thả giống. Đối với độ mặn từ 25
đến 35 ‰ (phần nghìn, ppt), PL10 đáp ứng tốt. Đối với các mức độ mặn khác,
việc thả ao bằng PL12 được khuyến khích, đặc biệt là đối với các vùng nước
mặn thấp. Giai đoạn ấu trùng được xác định dựa trên số lượng gai có hình mỏ
chim thấy được ở phía sau lưng (Hình 1).
Trại giống Thái Lan phơi sáng các PL ở nhiệt độ 32°C trong 7 ngày, để chúng
có thể kháng virus đốm trắng (white spot syndrome virus - WSSV) trong quá
trình nuôi.
Hình 1. Xác định giai đoạn ấu trùng dựa trên gai có hình mỏ chim. PL9 có 3
gai. PL10 có một gai thứ 4 đang được hình thành. PL12 được xác định bởi
gai thứ 4 phát triển hoàn thiện.
Thả giống
Độ pH, nhiệt độ và độ mặn giữa quá trình chuyển từ trại nuôi giống và thời
gian tới trại nuôi thịt nên dao động khoảng 0.5 điểm. Độ pH trong quá trình
chuyển đổi được quy định bằng cách sử dụng canxi cacbonat. Đối với việc
canh tác nước ngọt, các trại giống cung cấp những ấu trùng đã thích nghi
được với độ mặn 5 ‰. Đây là lý do tại sao sự thích nghi trước khi thả giống
trong các ao nuôi thịt được thực hiện chỉ liên quan tới nhiệt độ để quá trình
này mất không quá một giờ. Thời gian thả giống tốt nhất là 6-7h sáng hoặc 6-
7h tối, khi đủ nhiệt độ và các tia mặt trời nhẹ hơn, giảm áp lực tối thiểu tới ấu
trùng.
Một lỗi thường gặp của các nhà sản xuất là thiếu chính xác trong việc ước
tính số lượng ấu trùng thả. Tất cả mức vượt quá do trại giống cung cấp phải
được tính đến khi xác định số ấu trùng được thả. Yếu tố này có ý nghĩa quan
trọng để ước lượng cả sinh khối ao và số lượng thức ăn được cung cấp trong
suốt quá trình nuôi thịt. Khi đến ao nuôi, phải tính tổng số ấu trùng trong túi.
Chất lượng nước
Các giá trị về chất lượng nước thích hợp cho nuôi tôm như sau:
Oxy: 5,0 ppm O2 trong thời gian ban ngày/6,0 ppm vào buổi chiều:
Độ pH: 7,5 vào buổi sáng; 8,5 vào buổi chiều.
Độ kiềm: 80 - 180 ppm CaCO3
Amoni không ion hóa: tối đa 0,1 mg / L
Nitrit: tối đa 0,01 mg/L
Tôm phát triển tốt nhất ở 28°C-31°C, với độ mặn 18 ‰ -25 ‰
Các vấn đề tôm yếu có thể do mất cân bằng tỷ lệ Mg:Ca.Tỷ lệ 3,4:1,0 được
khuyến khích cho dù độ mặn ở mức cao hay trung bình, và tỷ lệ 5,0:1,0 cho
độ mặn thấp.
Với mục đích này, khuyến khích dùng vôi dolomit hoặc clorua magiê như là
các nguồn magiê.
Cho ăn
Một chương trình cho ăn tốt nên đạt được những điều sau:
• Chi phí sản xuất thấp
• FCR giảm
• Chất lượng nước tốt
• Đáy ao được cải thiện
• Tăng trưởng tôm tốt
Chương trình cho ăn trong suốt tháng đầu tiên:
Tại Thái Lan, chương trình cho ăn trong tháng đầu tiên được dựa trên số
lượng cần thiết cho 1 triệu ấu trùng.
Trong ngày đầu tiên, cho ăn 2,5 kg thức ăn. Sau đó, cho ăn như sau
2 - 7 ngày: 100g/ngày (lượng thức ăn vào ngày thứ 7: 3,1 kg)
8 - 14 ngày: 200g/ngày
15 - 30 ngày: 300g/ngày (Lượng thức ăn vào ngày thứ 30: 9,3 kg)
Tổng lượng thức ăn dồn lại trong 30 ngày nuôi đầu tiên: 159,7 kg.
Sau tháng đầu tiên, khay ăn được được sử dụng theo bảng sau, dựa trên %
sinh khối:
Trọng lượng tôm (g)
2
3
5
7
10
12
15
20
25
30
Quản lý các máng ăn
Cách tốt nhất để cho tôm ăn là sử dụng các máng ăn, tham chiếu tới một bảng
cho ăn. Tuy nhiên, không nên sử dụng máng ăn như một phương pháp tham
khảo duy nhất. Việc giải thích các chỉ số của máng ăn có thể bị sai lệch bởi
tôm di chuyển xung quanh các bộ phận khác nhau của ao. Các lỗi xảy ra do
chuyển động sục khí, dòng chảy, hoặc các máng ăn có trọng lượng quá nặng
cũng có thể dẫn thất thoát thức ăn. Khi máng nằm ở cùng một hướng với dòng
chảy, nên sử dụng một vách ngăn bảo vệ (Hình 2).
Hình 2. Các màng ngăn máng ăn được sử dụng trong trường hợp các dòng
nước có khả năng đẩy thức ăn ra khỏi khay.
Số lượng thức ăn trong mỗi máng ăn và thời gian kiểm tra dựa trên trọng
lượng tôm được thể hiện trong bảng sau:
Trọng lượng Lượng thức ăn Thời gian kiểm tra
(gam) g / kg /khay (giờ)
1,5 – 4,0 1 2,5
5,0 – 8,0 2 2,5
9,0 – 16,0 3 2
17,0 – 22,0 4 2
23,0 – 33,0 5 1,5
Số % protein trong thức ăn
Trong nuôi thâm canh ở Thái Lan, số % protein phụ thuộc vào các giai đoạn
nuôi, như sau:
Trọng lượng (g) % Protein không nhỏ hơn:
0,02 - 0,2 38%
0,2 - 1,0 35%
1,0 - 3,0 34%
3,0 - 8,0 34%
8,0 - 12,0 32%
12,0 - 20,0 32%
> 20,0 28%
Số protein tính theo phần trăm là một hàm của việc quản lý tốt, sự sản sinh
thức ăn tự nhiên, và sự cân bằng sản sinh sơ cấp/thứ cấp, bao gồm floc. Năng
suất tốt có được khi tảo cát chiếm ưu thế trong các sinh vật phù du, và độ
trong nước ao nằm trong khoảng 30-40 cm.
Tỷ lệ liều lượng/thời gian cho ăn
Cho tôm ăn 4 lần (4X) mỗi ngày là hiệu quả nhất. Các lần được đề xuất như
sau:
Số lần cho ăn Thời gian
Lần 1 7.30 - 8:00 sáng
Lần 2 12:00 -12.30 sáng
Lần 3 05:00 chiều
Lần 4 10:00 chiều (30% khẩu phần)
Không nên cho tôm ăn vào lúc 6h sáng bởi vì nồng độ oxy thường là quá
thấp. Trong trường hợp mức độ oxy lúc 7:30 sáng vẫn còn quá thấp, thì nên
cho ăn muộn hơn trong ngày, cho đến khi nồng độ oxy tăng lên. Việc cung
cấp tối đa chỉ 30% khẩu phần vào buổi tối thúc đẩy tôm tiêu thụ thức ăn từ tự
nhiên.
Trong trường hợp mưa lớn, nên tránh cho ăn do biến động nhiệt độ/độ mặn
đột ngột tiềm ẩn. Ngoài ra, trong trường hợp thực vật phù du chết hàng loạt,
nên tránh cho ăn do mức nitrit/amoni có thể tăng cao. Cuối cùng, nên giảm
bớt tỷ lệ cho ăn trong quá trình lột xác. Clorua canxi đôi khi được áp dụng
nhằm giúp quá trình lột xác diễn ra bình thường.
Đánh giá ruột/phân
Đánh giá màu sắc ruột tôm là một công cụ biến thiên cho việc quản lý thức
ăn. Ruột đen có nghĩa là tôm chỉ thức ăn sản sinh từ tự nhiên, trong khi
ruột màu nâu chứng tỏ tôm ăn đủ thức ăn được cân bằng. Một giờ sau khi
ăn, ít nhất một nửa số tôm nên có ruột đầy thức ăn. Nếu tất cả ruột có màu
đen, lượng khẩu phần phải được tăng lên. Mặt khác, nếu một giờ sau khi ăn
ruột có màu đen, có nghĩa rằng tất cả các nguồn thức ăn trước đó đã được tiêu
thụ hoàn toàn, do đó tránh cho ăn quá mức.
Cho ăn quá mức
Cho ăn quá mức dẫn đến dư thừa chất dinh dưỡng trong nước khiến tảo nở rộ.
Tảo sẽ chết sau đó khi mức oxy hoặc mức độ dinh dưỡng giảm. Khi điều này
xảy ra trong quá trình nuôi, nên cắt bỏ ít nhất một phần thức ăn nhằm khuyến
khích tôm ăn thức ăn có từ tự nhiên (sinh vật đáy và mảnh vụn từ tảo chết).
Bằng cách này, tốc độ tăng trưởng tôm không bị ảnh hưởng.
Độ trong của nước khoảng 20 cm do tảo dư thừa dẫn đến mức độ oxy thấp và
chất lượng nước kém. Ngoài ra, cho ăn quá mức còn dẫn đến:
Thay đổi chất lượng nước
Lượng oxy hòa tan thấp/mức độ pH thấp vào buổi sáng
Lượng oxy hòa tan cao/mức độ pH cao vào buổi tối
Các yếu tố tác động tới việc cho ăn
Ở nhiệt độ > 32°C, lượng ăn vào tăng trong khi hiệu quả sử dụng thức ăn
giảm. Thức ăn thông qua hệ thống tiêu hóa của tôm rất nhanh, dẫn đến hấp
thụ chất dinh dưỡng kém. Tỷ lệ tăng trưởng/chuyển đổi thức ăn đạt mức tốt
nhất khi nồng độ oxy lớn hơn 4 mg/L.
Trao đổi nước/sục khí
Nước không được trao đổi trong 6 ngày đầu tiên. Trước khi đưa vào ao, nước
phải được xử lý trong hồ chứa. Sau đó, tối đa là 10% nước được trao đổi mỗi
tuần.
Việc sục khí bắt đầu ngay cả trước khi thả giống. Trong thời gian ban ngày,
không nên tắt tất cả các thiết bị sục khí. Khuyến khích duy trì chuyển động
nước để thúc đẩy tôm di chuyển, trong khi ngăn ngừa các tổn thương trong
quá trình luân chuyển.
Ở Thái Lan, tỷ lệ sinh khối khí là 1 HP:400 kg sinh khối. Nên sử dụng các
thiết bị sục khí với độ sâu tối đa là 1,5 m. Sử dụng công nghệ sục oxy đáy
để mang lại hiệu quả cao.
Sử dụng vi khuẩn/chế phẩm sinh học
Nên thuê một nhà vi trùng học làm việc trong 2 chu kì nuôi, nhằm tìm kiếm
đủ các loại vi khuẩn để duy trì mức độ chất hữu cơ thích hợp, thay thế cho các
vi khuẩn gây bệnh. Nhu cầu sử dụng vi khuẩn khác nhau đối với mỗi ao nuôi
tôm.
Thu hoạch
Khai thác vào ban đêm không được khuyến khích vì độ pH trong khoảng thời
gian này có xu hướng giảm. Thời gian thu hoạch tốt nhất là vào buổi chiều,
khi độ pH nằm giữa khoảng 8,0 và 8,5. Ở các mức pH này thì việc lột xác
không diễn ra. Trong các mùa mưa lớn, Thái Lan cũng bổ sung thêm đá vôi
vào ao để tránh tôm lột xác, nhằm bù lại độ pH thấp gây ra bởi những trận
mưa.