Làng này nhận làng kia làm anh em và quan hệ với nhau 
bằng những quy ước theo nghi lễ của tục kết chạ hết sức độc 
đáo. Trải qua hàng trăm năm nhưng 2 làng Kim Thượng (xã 
Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) và làng Trâu Lỗ (xã Mai 
Đình, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang) không có một đôi trai gái 
nào lấy nhau
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
10 trang | 
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỳ lạ 2 làng hàng trăm năm trai gái không lấy nhau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỳ lạ 2 làng hàng trăm 
năm trai gái không lấy 
nhau 
Làng này nhận làng kia làm anh em và quan hệ với nhau 
bằng những quy ước theo nghi lễ của tục kết chạ hết sức độc 
đáo. Trải qua hàng trăm năm nhưng 2 làng Kim Thượng (xã 
Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) và làng Trâu Lỗ (xã Mai 
Đình, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang) không có một đôi trai gái 
nào lấy nhau 
Khởi nguồn từ con trâu trắng 
Tương truyền, thời xa xưa, làng Kim Thượng mở hội tế thần 
linh bằng việc mổ một con trâu trắng to khỏe nhất để dâng 
lên Thành hoàng làng, cầu mong Thành hoàng phù hộ cho 
dân làng được bình an vô sự, cho mưa thuận gió hòa, mùa 
màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi nảy nở. 
Buổi lễ diễn ra long trọng trước sự chứng kiến của hàng 
nghìn người, nhưng đến lúc chuẩn bị kết thúc bỗng dưng con 
trâu trắng lồng lên quật đứt dây thừng rồi nhắm hướng mặt 
trời mà chạy. Trâu vượt qua sông Cà Lồ sang nằm trước ngôi 
đền của làng Trâu Lỗ, nơi thờ Trương Hống và Trương Hát, 
hai vị anh hùng có công giúp Triệu Quang Phục đánh đuổi 
giặc Lương xâm lược. 
Bỗng dưng thấy con trâu trắng nằm trước cửa đền, người dân 
làng Trâu Lỗ cho đó là điềm thiêng, còn người dân Kim 
Thượng hốt hoảng vì sợ rằng “trâu mình vào làng người ta, 
họ không cho chuộc chẳng biết ăn nói sao với các cụ Thượng 
trong làng”. 
Bàn nhau mãi, cuối cùng họ phải trở về sắm lễ, mang tiền 
sang xin chuộc. Trái ngược với suy nghĩ làng Kim Thượng, 
dân làng Trâu Lỗ hết sức nhã nhặn: “Dạ thưa anh, người là 
vàng, của là ngãi, chúng em đâu dám nhận tiền chuộc”. 
Cảm kích trước hành động của dân làng Trâu Lỗ, dân làng 
Kim Thượng xin được kết chạ và nhận nhau làm anh em. Và 
cũng từ đó những quy ước ngặt nghèo ra đời mà mãi 400 
năm sau, hai làng vẫn theo lệ gặp nhau khi có việc chung. 
Một quy ước chẳng khác nào một lời nguyền. Lời nguyền 
khiến trai gái hai làng không thể nào đến được với nhau. 
Lời nguyền này được cụ Ngô Văn Xuyên (97 tuổi), người già 
nhất làng ở đây kể lại, giữa làng Trâu Lỗ và Kim Thượng có 
hẳn một hương ước quy định rõ 5 điều bắt buộc khi kết chạ 
với nhau gồm: giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, trai gái 2 làng 
không được lấy nhau, gặp nhau không được bàn việc riêng, 
dân nhập cư phải sau 3 đời mới được tham gia vào việc kết 
nghĩa, nếu vi phạm những điều này sẽ bị trục xuất khỏi làng. 
Bản hương ước quy định 5 điều giữa 2 làng chẳng biết thực 
hư đến đâu nhưng chuyện trai gái đúng là không được kết 
hôn thật. Năm ngoái, con gái nhà bà Thuật ở Trâu Lỗ định gả 
về làng Lũ Hạ, một ngôi làng ở gần làng Kim Thượng. 
Sau khi tìm hiểu kỹ mới biết gia đình bên ấy cũng có gốc gác 
bên Kim Thượng, nên đôi trai gái phải nhờ gia đình dò hỏi ý 
kiến 2 làng xem thử thế nào rồi mới dám quyết định có tổ 
chức đám cưới hay không. Cuối cùng, đôi trai gái ấy vẫn 
được các cụ cho phép đến với nhau, nhưng hai làng quy định 
lễ tết chỉ được về thăm bố mẹ đẻ và không được tham dự việc 
làng. 
Đó là trường hợp duy nhất dính dáng đến quy ước của làng. 
Hơn 400 năm qua, dân hai làng chưa hề có ai vi phạm cả. 
“Những quy định ấy suy cho cùng có phần cực đoan, nhưng 
lệ làng thế rồi. Các cụ cũng chỉ muốn dân hai làng xem nhau 
như ruột thịt, chỉ kết nghĩa tập thể vì họ sợ những mối quan 
hệ riêng tư làm ảnh hưởng đến truyền thống tốt đẹp giữa hai 
làng mà thôi”, một người lớn tuổi trong làng cho biết. 
Cứ 6 năm hai làng lại tổ chức lễ kết chạ một lần. Theo quy 
định của các cụ thời xưa thì ngày lễ không được sớm hơn 6 
giờ sáng và không muộn hơn 6 giờ tối. Buổi lễ được chuẩn bị 
một cách kĩ lưỡng và trang trọng, nghi thức linh đình, có 
kiệu, trống chiêng, các loại binh khí... giống như rước quan 
ngày xưa. 
Kết mối lương duyên 
Cụ Xuyên, người cao tuổi trong làng kể lại: chuyện hai làng 
kết nghĩa với nhau ở đất Bắc Giang cụ có nghe nhiều. Nhưng 
để “sống chết với nhau” như ngôi làng cụ đang sống và Kim 
Thượng thì quả thực là chuyện hiếm hoi. 
Cái hiếm hoi mà cụ nói đến đó là việc hai làng sẵn sàng hỗ 
trợ hàng trăm triệu đồng mỗi khi bên này hay bên kia có việc 
mà không tính toán, so đo. Chỉ riêng điều này thì cụ thẳng 
thắn khẳng định rằng chẳng nơi nào có được. 
 Dù rất yếu, song cụ Xuyên vẫn dẫn chúng tôi ra con đường 
liên thôn được đổ bằng bê tông sạch sẽ, lúc khởi công, chẳng 
cần đánh tiếng gì nhưng hôm trước bắt tay làm thì hôm sau 
đã thấy các cụ bên Kim Thượng mang sang cả trăm triệu 
đồng kính cẩn: “Dạ, lạy anh. Nghe tin bên anh làm đường, 
thân em có chút tiền mọn gọi là góp công góp của để hỗ trợ 
anh cùng nhau ta xây dựng”. 
Nói là anh em kết nghĩa nhưng hai làng không có làng nào 
phân biệt là anh, làng nào em. Mỗi khi gặp nhau họ đều dùng 
từ “lạy anh” thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau. 
Không bắt buộc, chẳng quy định nào ghi rõ nhưng lâu dần 
thành lệ. Những công trình góp công góp của đều mang tên 
đúng với tinh thần hữu nghị bằng việc lấy từ đầu trong tên 
làng: Kim Trâu. “Vừa thể hiện tình cảm gắn bó keo sơn, vừa 
góp ích phát triển xã hội”, cụ Xuyên phân trần. 
 Đấy là chuyện góp của, còn góp công cũng nhiệt tình chẳng 
kém. Độ hai chục năm trước, làng Trâu Lỗ khởi công xây 
dựng đập thủy lợi lớn nhất xã. Biết tin mừng, dân Kim 
Thượng nhà này bảo nhà kia kéo nhau sang góp sức. Đến nỗi 
Bí thư Đảng ủy xã Kim Lũ lúc bấy giờ phải ra lệnh cấm 
người dân không được rời làng vì sợ ảnh hưởng đến năng 
suất sản xuất khi vụ mùa đang ở giai đoạn thu hoạch. 
Nhưng lệnh cấm chỉ có hiệu lực ban ngày. Đêm đến, hàng 
trăm trai tráng Kim Thượng vượt sông Cà Lồ mang theo lúa 
gạo sang Trâu Lỗ đào đất đắp đập. Giờ nghỉ, người người 
ngồi kín cả sân đình. Người nào việc nấy, đến lúc đắp xong 
đập họ mới cùng nhau trở về UBND xã để chịu phạt. 
Có đi có lại, những lúc Kim Thượng khó khăn, dân Trâu Lỗ 
cũng biết cách “biến việc người ta thành việc của mình”. 
Nghe tin “bên ấy” thiếu mạ giống, cụ Thượng làng họp mặt 
huy động mỗi suất đinh đóng 5 bó mạ chất lên thuyền chở 
sang. Hơn 400 hộ dân, mỗi hộ vài ba đinh nên chuyện thiếu 
mạ lúc nước sôi lửa bỏng trở thành chuyện nhỏ. “Bên ấy” 
mất mùa, “bên này” cũng tất bật chạy đôn chạy đáo góp thóc 
sang chia sẻ. 
Có một năm, cả hai làng đều bị thiên tai mất mùa. Bên nào 
cũng nghĩ bên kia đang khốn khó nhưng vì hoàn cảnh như 
nhau nên họ phải âm thầm đi vay mượn về cứu tế anh em kết 
nghĩa của mình. Nửa đêm thuyền chở lương thực làng này 
gặp làng kia đang đôn đáo ngay trên sông, chẳng ai nói với ai 
lời nào, họ cứ ôm nhau mà khóc. 
Tình cảm vì thế càng thêm sâu nặng. Năm này qua năm khác, 
lúc tiền mặt, lúc hiện vật, những việc ấy vừa là nghĩa vụ vừa 
là tình cảm, chẳng bên nào phải tính toán. Của cho không 
bằng cách cho. Họ mang đến tận sân đình, thưa gửi tử tế rồi 
mới dám cho người mang đi sử dụng. 
 Giá trị lớn hay nhỏ đều có như nhau cả. Có lần, làng Trâu Lỗ 
còn hỗ trợ Kim Thượng hơn 300 triệu đồng để sửa sang đình 
chùa nhưng nghi lễ cũng chỉ như những lúc hỗ trợ thúng 
thóc, ngọn mía giống mà thôi. “Đóng góp việc này việc kia 
người ta có thể nấn ná, nhưng hễ có việc đến “làng kết nghĩa” 
chả ai nề hà. Đấy vừa là phong tục truyền thống, vừa là cái 
tình chúng tôi đối với nhau”, cụ Xuyên phân trần. 
Lạ một điều, tình cảm keo sơn là thế nhưng người Trâu Lỗ và 
Kim Thượng sẽ bị phạt rất nặng nếu phát hiện bàn việc riêng 
tư với nhau. Điều này được quy định bằng một bản hương 
ước giữa hai làng và có hẳn một đội “thi hành án” sẵn sàng 
xử lý những người vi phạm. Thành thử có gặp nhau trên 
đường họ cũng chỉ gật đầu rồi ai đi lối nấy. Có việc gì muốn 
trao đổi xin mời các cụ ra sân đình đàng hoàng.