Kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm

Lăng nha (Mystus wyckiioides) là loài cá nước ngọt, thịt trắng chắc, không xương dăm, mùi vị thơm ngon, giá trị thương phẩm cao. Trước đây, loại cá này chủ yếu được đánh bắt, khai thác từ tự nhiên. Tháng 7/2006, Trung tâm Khuyến ngư và Giống thủy sản An Giang đã sản xuất giống cá lăng nha thành công với sự trợ giúp của Khoa Thủy sản (Trường Đại học Nông - lâm TP.Hồ Chí Minh).

pdf19 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm Lăng nha (Mystus wyckiioides) là loài cá nước ngọt, thịt trắng chắc, không xương dăm, mùi vị thơm ngon, giá trị thương phẩm cao. Trước đây, loại cá này chủ yếu được đánh bắt, khai thác từ tự nhiên. Tháng 7/2006, Trung tâm Khuyến ngư và Giống thủy sản An Giang đã sản xuất giống cá lăng nha thành công với sự trợ giúp của Khoa Thủy sản (Trường Đại học Nông - lâm TP.Hồ Chí Minh). Xin giới thiệu cùng bà con kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm. Điều kiện ao, bè nuôi Để nuôi cá lăng nha đạt hiệu quả, có thể áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh trong ao hoặc trong bè. Tuy nhiên, nuôi trong bè cá lớn nhanh hơn. Ao nuôi rộng 1.000m2 trở lên, sâu 1,5 - 2m. Độ che phủ mặt nước không quá 30%. Lớp bùn dày 10 - 15cm, có thể chủ động cấp - thoát nước. Nếu nuôi bè, bè phải có thể tích 10m3 trở lên, đặt ở nơi có dòng chảy vừa phải. Nguồn nước dùng để nuôi cá lăng nha phải đảm bảo các thông số: Độ pH từ 6 - 8 (tốt nhất 6,5 - 7,5); ôxy hòa tan trên 3mg/l; độ trong 30 - 40cm; độ mặn 0 - 50/00, hàm lượng NH3 dưới 0,01mg/l. Chuẩn bị ao, bè Việc chuẩn bị ao, bè có ý nghĩa quyết định đến kết quả nuôi. Nếu tẩy trùng ao, bè tốt thì mầm bệnh khó có cơ hội phát triển. Tẩy dọn ao: Sau khi tháo cạn nước, dùng vôi nông nghiệp (CaCO3) rải đều khắp đáy ao với lượng 10 - 15kg/100m2. Ngay sau khi bón vôi, sử dụng sản phẩm chuyên dùng để hấp thụ khí độc hoặc chế phẩm sinh học Environ AC của Công ty Vĩnh Thịnh xử lý ô nhiễm nền đáy ao với liều 1 - 1,5kg/1000m3 nước để thúc đẩy việc phân huỷ chất hữu cơ và khử khí độc. Phơi nắng đáy ao 1 - 2 ngày rồi khử trùng ao một lần nữa bằng một trong các sản phẩm BKC, liều 0,7 - 1lít/1000m3 hoặc Sanmolt F, liều 1 - 1,5 lít/1000m3. Không nên bón lót ao bằng phân chuồng. Đối với bè, kiểm tra, gia cố bè thật kỹ trước khi thả cá. Dùng BKS hoặc Sanmolt F phun vào bè để diệt mầm bệnh. Đặt bè nơi ít sóng gió, dòng chảy vừa phải, thuận lợi trong việc vận chuyển cá, thức ăn. Thả cá giống Tiêu chuẩn: Cá không mất nhớt, đuôi và râu không bạc màu; cỡ đồng đều. Mật độ: Nếu nuôi trong ao bán thâm canh (nuôi ghép): 4-5 con/m2 (trong đó cá lăng nha chiếm 20-30% tổng số cá thả). Thâm canh (nuôi đơn): 6-8 con/m2. Ngoài ra, cần thả thêm 3- 5% cá rô phi thường để làm thức ăn cho cá. Nếu nuôi trong bè, mật độ 60-70 con/m3. Thời gian thả: Tốt nhất vào buổi sáng (8-11 giờ). Phòng bệnh cho cá bằng cách sát trùng (tắm cá) trước khi thả xuống ao, bè bằng muối ăn (1 muỗng canh pha trong 1 lít nước) hoặc BKS, Sanmolt F theo liều hướng dẫn. Thức ăn Có thể cho cá ăn bằng một trong các loại sau: cá tạp, cắt khúc vừa cỡ miệng. Thức ăn tự chế 50% cám + 50% cá. Thức ăn viên độ đạm ít nhất 35%. Cho ăn 3 lần/ngày (sáng, chiều và tối). Cữ tối chiếm 40-50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Nên bổ sung chất bổ vào thức ăn để giúp cá tăng sức đề kháng, tiêu hoá tốt, lớn nhanh hơn như: Các loại Vitamin C; chế phẩm vi sinh vật, men tiêu hoá (Aqualact 1g/kg thức ăn); các sản phẩm chứa axít amin, sorbitol (Hepatofish 2,5g/kg thức ăn); khoáng vi lượng (Vitatech F liều lượng 1 - 2g/kg thức ăn). Chăm sóc Nếu nuôi ao, thường xuyên theo dõi hoạt động của cá, nhất là vào sáng sớm để xử lý kịp thời. Định kỳ (15 - 20 ngày) thay nước ao một lần. Từ tháng thứ 2 trở đi, định kỳ 10 -15 ngày tiến hành khử trùng nước và khử khí độc ở đáy ao bằng BKC liều 0, 5 lít/1.000m3 nước hoặc Sanmolt F liều 0, 7 – 1 lít/1.000m3. Trong điều kiện nuôi bè, thường xuyên theo dõi hoạt động ăn mồi của cá, nhất là vào lúc nước đứng, nước đổ để xử lý kịp thời. Phòng bệnh cho cá bằng cách: Treo túi vôi ở đầu bè. 15 ngày khử trùng bè 1 lần bằng BKC (phun trực tiếp xuống bè). Hiện, Trung tâm Khuyến ngư và Giống thủy sản An Giang có thể cung cấp con giống và tư vấn kỹ thuật cho những hộ có nhu cầu. Trần Thế Tường (KTNN, 22/9/2009) Nuôi cá lăng nha trong lồng bè Cá lăng nha có tên khoa học là Mystus Wyckiioides, là loài cá nước ngọt, sống nhiều ở các nước châu Á, đặc biệt là các nước thuộc vùng châu thổ sông Mê Kông. Ở nước ta cá lăng nha thích hợp với khu vực ĐBSCL, nơi được hưởng nguồn nước ngọt của sông Tiền và sông Hậu. Cá lăng nha có thịt trắng chắc, ít xương dăm, mùi vị thơm ngon. Hiện nay cá lăng nha thương phẩm có giá từ 120.000- 150.000 đ/kg. Trước đây loài cá này chỉ được đánh bắt trong tự nhiên. Hiện nay, Trung tâm giống thủy sản An Giang đã cho sinh sản thành công nhân tạo cá lăng nha, vì vậy nguồn giống nuôi chủ yếu là từ sinh sản nhân tạo. Môi trường nước thích hợp cho cá lăng là: pH từ 6-8 (thích hợp nhất là 6,5-7,5), ô xy hòa tan trên 3 mg/lít, độ mặn từ 0- 50%o, hàm lượng NH3 dưới 0,01 mg/lít. Cá lăng nha có thể nuôi trong ao, trong lồng bè. Chúng tôi xin giới thiệu kinh nghiệm nuôi cá lăng nha trong lồng bè của một số người nuôi cá thành công. 1. Làm lồng nuôi cá: Tuỳ theo khả năng kinh tế của mỗi người mà có thể làm lồng có kích thước to hoặc nhỏ khác nhau, thể tích tối thiểu của bè là 10m3, độ sâu mực nước trong lồng phải đạt 2m. Lồng cần có mái che để che mát cho bè. Dùng bó tre hoặc thùng phuy làm phao để giảm độ chao lắc của bè, nên đặt lồng ở nơi có nước chảy vừa phải, không quá mạnh. Phía dưới của bè cần đổ một lớp đất sét mềm khoảng 10-15 cm để cho cá chui rúc khi động, đất sét được khử trùng bằng vôi và muối, liều lượng là 10kg đất trộn với 100-150gr muối và 50-100gr vôi bột. 2. Cá giống: Cần biết rõ nguồn cá giống. Nên mua cá giống ở những nơi bán có uy tín. Cá giống tốt là cá không mất nhớt, đuôi và râu không bạc màu, đồng cỡ, cá bơi lội khỏe, cỡ cá thả khoảng 5-7cm, trọng lượng 30 con/kg. 3. Chăm sóc: Cần làm sàn ăn cho cá, cách làm này sẽ quản lý được lượng thức ăn và nắm được sức tăng trọng của cá. Liều lượng mồi cho ăn hằng ngày bằng 5-7% trọng lượng cơ thể cá. Thức ăn của cá là cá tạp xay nhỏ hoặc cắt khúc vừa miệng cho cá ăn. Thức ăn tự chế gồm 50% cám + 50% cá tạp xay nhỏ, ép thành viên cho cá ăn. Cần cho cá ăn thêm thức ăn công nghiệp để bổ sung hàm lượng đạm. Một ngày cho cá ăn 3 lần vào lúc sáng, chiều và tối. Lượng thức ăn buổi tối khoảng 40-50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Trong quá trình cho ăn cần quan sát lượng mồi thừa thiếu trong sàn mà điều chỉnh tăng hay giảm lượng thức ăn cho mỗi ngày. Cần đưa ra khỏi bè cá thức ăn còn dư để tránh ô nhiễm môi trường nuôi cá. Đầu mùa dịch bệnh, khoảng tháng 10, 11 cần thêm vào thức ăn vitamin C với lượng 5 mg/100 kg cá. 4. Phòng và trị bệnh: Thường xuyên kiểm tra, gia cố bè thật chắc trước và sau khi thả cá. Dùng BKS hoặc Sanmolt F phun vào bè để diệt mầm bệnh. Đặt bè nơi ít sóng gió, tốc độ nước chảy nhẹ, thuận lợi cho việc vận chuyển cá và thức ăn. Trước khi thả cá cần tắm cho cá bằng dung dịch muối ăn 2- 3%o. Thường xuyên theo dõi hoạt động ăn của cá, nhất là lúc nước đứng để có biện pháp xử lý kịp thời. Phòng bệnh bằng cách treo các túi vôi ở đầu bè, khoảng 15-20 ngày phun khử trùng bè một lần bằng BKS (phun trực tiếp xuống bè). KS Phương Thanh, NNVN, 24/10/2008 Nuôi cá lăng nha - ngư dân đầu nguồn phát lên Nuôi cá lăng nha đuôi đỏ trong lồng bè là một mô hình hiệu quả, đem lại thu nhập cao cho ngư dân vùng sông nước đầu nguồn huyện An Phú. Cá lăng nha đuôi đỏ đặc sản mở ra triển vọng mới trong nghề nuôi thủy sản ở An Giang... Nằm cặp sông Bình Di thuộc thị trấn Long Bình, huyện An Phú, giáp ranh với huyện Kỏ Thum, tỉnh Kandal (Campuchia), làng bè nuôi cá lăng nha với hàng trăm bè nuôi lớn nhỏ liền kề trông giống hệt như làng bè Châu Đốc. Một cán bộ địa phương dẫn chúng tôi đến bè cá của chú Nguyễn Văn Vàng (Tư Vàng), ngụ ấp Tân Khánh, thị trấn Long Bình, khi chú đang loay hoay chạy máy xay ép gần 200 kg cá mồi chuẩn bị cho cá lăng nha ăn. Tiếp chuyện chúng tôi, chú Tư Vàng tỏ ra rất vui vì năm nay 2 bè cá lăng nha của chú đạt sản lượng cao và trúng giá. Chỉ tay về thau mồi, chú Tư Vàng khoe: “Mồi này xay để vỗ béo cho bè thứ hai, cá cũng lớn hết rồi, trung bình khoảng 1 kg/con, hơn tháng nữa tôi sẽ kêu lái bán. Còn hôm qua thương lái đã chạy ghe vô cân bè thứ nhất. Với 5 tấn cá, giá bán 60.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, tôi bỏ túi ngót nghét trên 120 triệu đồng”. Chú Tư Vàng nhớ lại khoảng năm 1999, nhà không ruộng rẫy nhưng chú mạnh dạn vay nóng bên ngoài đầu tư đóng một cái bè, ngang 4m, dài 8 m rồi mua 60.000 con cá tra giống về thả. Lúc đó môi trường nước còn trong lành lắm nên cá lớn nhanh như thổi, nhưng do giá cả thị trường “tuột dốc” còn khoảng 8.000 đồng/kg, chú lỗ đến sạt nghiệp. Nghỉ nuôi một thời gian, chú lại tiếp tục bắt tay vào nuôi cá ba sa, rồi nuôi cá lóc bông nhưng kết quả cũng không khả quan. Năm 2006, trong một lần sang thăm người thân bên tỉnh Kandal (Campuchia), chú Tư Vàng thấy nhiều hộ dân ở đây nuôi cá lăng nha đuôi đỏ trong lồng bè, trọng lượng đạt gần 2 kg/con. Chú liền tìm hiểu kỹ thuật nuôi và mua 5.000 con giống về nuôi với giá 4.800 đồng/con (cỡ 2,5 phân/con). Sau gần 12 tháng bỏ công chăm sóc, bè cá đạt sản lượng 6 tấn, chú xuất bán với giá 60.000 đồng/kg, sau khi trừ tất cả chi phí, chú nắm trong tay cả trăm triệu đồng. Chú Tư Vàng bộc bạch: “Ban đầu tôi làm liều bắt cá lăng nha giống về nuôi chứ chưa biết bán được hay không. Vì đây là loại cá ở tỉnh nhà chưa ai nuôi, chỉ tiêu thụ cá ở chợ hoặc quán ăn, nhà hàng. Nhưng nhờ nguồn cung khan hiếm mà giá bán cá rất cao...”. Với bè cá thứ hai sắp xuất bán, chú ước tính mức lời tổng cộng của hai bè cá khoảng 300 triệu đồng. Thấy chú Tư Vàng nuôi cá lăng nha có hiệu quả, nhiều hộ trong xóm đẩy mạnh đầu tư vào việc nuôi cá lăng nha và cũng có thu nhập đáng kể. Anh Huỳnh Văn Tốt trước đây chỉ biết bám vào ruộng đồng với trên 3 công đất toàn làm lúa nhưng đời sống vẫn khó khăn. Nhiều lần đến bè cá của chú Tư Vàng chơi, anh Tốt học hỏi cách nuôi và mạnh dạn đầu tư mua gỗ đóng 2 bè khoảng 24m2, rồi mua 10.000 con giống cá lăng nha về thả. Anh Tốt nhẩm tính: “Chi phí đầu tư nuôi cá lăng nha thấp hơn so với nuôi cá tra nhiều lần. Cá lăng nha ăn tạp nên nguồn thức ăn cũng dễ tìm, chủ yếu là cá biển hoặc cá linh mùa nước nổi. Trung bình cho ăn khoảng 6 kg mồi, cá đạt trọng lượng trên 1 kg. Nếu tính 1 kg mồi giá 5.000 đồng/kg trong khi cá lăng nha đạt trọng lượng 1 kg bán với giá 60.000 đồng/kg, xem như một lời một. Loại cá này thích hợp với môi trường nước chảy nên phải nuôi trong lồng bè cá mới mau lớn. Ngoài ra, cá còn có đặc điểm là ít bệnh, nếu nuôi hết cỡ, cá đạt trọng lượng từ 3-4kg/con...”. Hiện nay, hai bè của anh Tốt cá đạt trọng lượng khoảng hơn 1kg/con. Dự kiến trong tháng tới anh cho xuất bán 2 bè khoảng 10 tấn cá này, sau khi trừ tất cả chi phí, anh còn lời khoảng 250 triệu đồng. Hiện nay, mô hình nuôi cá lăng nha đang trở thành thế mạnh đặc thù của vùng đầu nguồn huyện An Phú. Toàn huyện có khoảng 30 hộ nuôi cá lăng nha trong lồng bè, tập trung chủ yếu ven sông Bình Di, trong đó có trên 10 hộ nuôi tập trung, còn lại là những hộ nuôi tự phát. Tuy nhiên, để nghề nuôi cá lăng nha không bị rơi vào cảnh khủng hoảng thừa rồi lao đao như con cá tra, cá ba sa, bà con nơi đây rất cần chính quyền địa phương và ngành chức năng sớm quy hoạch vùng nuôi hợp lý. Qua đó, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, tổ chức đầu ra ổn định, tránh tình trạng thương lái ép giá người nuôi, để bà con an tâm phát triển nghề mới. Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, bà Trương Thị Hoa, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện An Phú, cho biết: Vài năm gần đây, mô hình nuôi cá lăng nha đuôi đỏ trong lồng bè được xem là mô hình mới có hiệu quả cao của bà con nơi đây. Cái khó của người nuôi hiện nay là đầu ra con cá lăng nha chưa ổn định, thương lái thường xuyên ép giá, do trên địa bàn huyện chỉ có duy nhất một thương lái thu mua cá lăng nha. Vì vậy, chúng tôi đã khuyến cáo người dân cần tính toán kỹ, không phát triển diện tích nuôi một cách tự phát trong khi đầu ra vẫn còn hẹp... LƯU MINH (Báo Cần Thơ, 24/04/2009) Cách nuôi cá lăng thương phẩm hiệu quả cao ThS. Ngô Văn Ngọc (Khoa Thủy sản, Đại học Nông Lâm TP. HCM) cho sinh sản nhân tạo thành công các giống cá lăng quý hiếm, và sản xuất hàng loạt cá giống cung cấp cho người dân. Công nghệ này cũng được chuyển giao cho nhiều địa phương sản xuất cá giống thành công, để nuôi thành cá lăng thương phẩm hiệu quả cao. Cách nuôi thương phẩm cá lăng nha (lăng đuôi đỏ) và cá lăng hầm: Cá lăng nha, lăng hầm có thể nuôi theo hai hình thức: thâm canh hoặc bán thâm canh (ao đất). Trong nuôi thâm canh (nuôi đơn), có thể nuôi trong ao đất hoặc nuôi trong bè. Thời gian nuôi cá lăng nha, lăng hầm từ 1,5 - 2 năm. Năm đầu tiên cá đạt trọng lượng 0,7 - 1kg/con. Năm thứ hai cá đạt 2- 2,5kg/con. Chuẩn bị ao, bè: Ao có diện tích trên 1000 m vuông, độ sâu mực nước 1,2 - 2m. Tẩy ao bằng vôi bột thật kỹ: 10 - 15kg vôi/ 100 m vuông. Phơi nắng 1-2 ngày rồi lọc nước cho vào ao. Thả bè thì kiểm tra bè thật kỹ trước khi thả cá nuôi. Thả cá: Chọn cá khỏe mạnh, không gãy đuôi, cỡ đồng đều, chiều dài 4-5cm. Mật độ thả ao: Nuôi thâm canh: 8 - 10con/m vuông (ao chủ động nước). Nuôi thâm canh cũng nên thả thêm khoảng 3-5% cá rô phi thường (không cần cá đơn tính đực). Nuôi bán thâm canh: 4-5 con/m vuông (ao chủ động nước). Nuôi chung với các loài cá khác, có thể theo tỉ lệ: Cá lăng nhà 20 - 30% tổng đàn, cá khác 70-80% (mè, trôi, trắm, chép, rô phi ...) Mật độ nuôi bè 60 -80con/ m khối (cỡ cá lớn hơn mắt lưới bè). Thời điểm thả cá lúc nước mát. Cho cá ăn: Nuôi ao và nuôi bè cho ăn giống nhau và lượng thức ăn phải điều chỉnh theo khả năng ăn của cá. Cho cá ăn như sau: Ba tháng đầu: Thức ăn tự chế gồm: cá tạp tươi: 60-70% + cám gạo hoặc thức ăn viên 30 - 40% + vitamin C: 1mg/kg thức ăn. Trộn thật đều rồi vo thành viên bỏ vào sàn chìm trong nước để cá ăn. Khẩu phần: 7-10% tổng trọng lượng cá. Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 - 50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Sau ba tháng đầu, thay đổi thành phần thức ăn: Cá tạp tuơi 50% + cám gạo hoặc thức ăn viên 50% + vitamin C: 1mg/kg thức ăn. Trộn thật đều rồi vo thành viên bỏ vào sàn chìm trong nước để cá ăn.. Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 - 50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Khi cá đạt chiều dài khoảng 30cm trở lên có thể cho cá ăn bằng một trong hai loại thức ăn sau: Thức ăn tự chế gồm: Cá tạp tuơi 50% + cám gạo hoặc thức ăn viên 50% + vitamin C: 1mg/kg thức ăn. Trộn thật đều rồi vo thành viên bỏ vào sàn chìm trong nước để cá ăn.. Khẩu phần ăn 3-4% tổng trọng lượng cá. Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 - 50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Thức ăn viên (độ đạm trên 30%): Khẩu phần ăn: 2-3% ng trọng lượng cá.Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 - 50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Cá lăng nha thích ăn chìm hơn ăn nổi nên muốn sử dụng thức ăn viên phải tập cho cá quen dần rồi mới thay toàn bộ thức ăn tự chế. Chăm sóc: Đối với ao, định kỳ 15-20 ngày thay nước một lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước cũ. Định kỳ 15 ngày/lần khử trùng ao nuôi bằng vôi bột (3-5kg/100 m khối nước) hoặc BKC hoặc formol (liều lượng theo hướng dẫn). Đối với bè, treo túi vôi ở đầu bè để khử trùng nước hoặc phun BKC hoặc ormol (liều lượng theo hướng dẫn).
Tài liệu liên quan