Thuồng luồng tuy là con vật không có thật nhưng trong
dân gian của người Việt luôn coi nó là một con vật hung
dữ, bí ẩn sống dưới nước và có thể gây hại cho con người
bất kỳ lúc nào.
7 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lạ lẫm tục cúng thuồng luồng đầu xuân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lạ lẫm tục cúng thuồng
luồng đầu xuân
Thuồng luồng tuy là con vật không có thật nhưng trong
dân gian của người Việt luôn coi nó là một con vật hung
dữ, bí ẩn sống dưới nước và có thể gây hại cho con người
bất kỳ lúc nào.
Tuy nhiên, với người Thái, Mường, Khơ Mú ở vùng Văn
Chấn, Nghĩa Lộ từ xa xưa lại quan niệm thuồng luồng như
một vị thần nước. Muốn có được mưa thuận gió hòa, tránh
được tai ương thì cứ vào dịp đầu xuân, các tộc người này lại
làm lễ cúng thuồng luồng thì "ngài" mới không nổi giận và
ban cho những điều mong muốn.
Cách cúng thuồng luồng cũng có những nét khác nhau ở mỗi
tộc người. Chẳng hạn, với người Mường thì tùy theo từng
bản mà chọn ngày làm lễ cúng nhưng cơ bản đều vào dịp đầu
tháng Giêng. Lễ cúng do một ông mo mường cùng trưởng
bản làm chủ tế.
Họ lập một đàn cúng bằng bè chuối rồi đóng 4 cọc ở chỗ
nước nông đặt bè chuối lên trên. Trên bè chuối có các lễ vật
như xôi, thịt, rượu, hình các vật nuôi bằng giấy, vàng mã và
một đôi gà con một trống, một mái nhưng không được mổ.
Khi thầy mo và trưởng bản làm lễ cúng, dân bản cùng đứng ở
phía sau nhưng phải đứng ở dưới nước thì mới bày tỏ được
sự thành kính với thuồng luồng.
Văn tế tạ ơn, cầu khấn thuồng luồng ban cho những điều tốt
lành được hoàn tất, thầy mo xin âm dương bằng hai đồng xu
xem thuồng luồng đã chấp nhận lời thỉnh cầu hay chưa. Nếu
đã chấp nhận thì dân làng xúm lại hạ bè chuối xuống đẩy ra
chỗ nước sâu và vừa đẩy vừa reo hò cầu mong thuồng luồng
phù hộ cho dân.
Đối với người Thái thì họ thường làm lễ vào khi trời muốn
mưa và họ chọn chỗ vực nước sâu nhất để làm lễ cúng vì cho
rằng đó là nơi ở của thuồng luồng. Đàn cúng được làm bằng
sàn tre bên bờ suối và mỗi nhà mang một chút lễ vật ra cùng
đặt lên đàn cúng. Lễ cúng thường có gạo nếp, vải dệt, rượu
nhưng không thể thiếu thịt trâu, thịt lợn sống, trứng sống.
Lễ cúng được hoàn tất thì mọi người cùng nhau thả những lễ
vật xuống khúc suối sâu cho thuồng luồng. Sau đó, dân bản
cùng nhau kéo đến khu đất rộng gần đó cùng ăn cỗ, múa xoè,
hát đối đáp, chơi các trò chơi dân gian hót vịt, hót nặm (té
nước).
Còn với người Khơ Mú, nghi lễ này được tổ chức khá độc
đáo trong mùa xuân. Khu vực cúng thuồng luồng cũng được
tổ chức ngay bên dòng suối. Lễ cúng của họ cũng có xôi, thịt
làm chín, rượu và một con gà đã làm sạch lông nhưng không
được mổ. Tuy nhiên, điểm khác biệt là trong lễ vật cúng tế,
người Khơ Mú còn làm thêm một số đồ vật bằng tre, nứa, gỗ
để dâng lên thuồng luồng.
Lễ cúng được chuẩn bị xong, thầy mo sẽ làm lễ tế thuồng
luồng. Khi văn tế chấm dứt là đến màn diễn xướng. Một
người mặt hóa trang bằng nhọ nồi, bột màu trắng, vàng mô
phỏng mặt của thuồng luồng, trên mình của người này đeo
một hình mộm con thồng luồng đầu giống như đầu rồng, thân
rắn và đuôi xòe làm bằng cành lá cau hoặc cây móc.
Sau một hồi thuồng luồng nhào lộn trong đám đông thì có
một nhân vật khác đeo mặt nạ đen giả làm thần sét xông ra
nhảy múa và tay cầm đồ vật như lưỡi tầm sét hô hét như thể
đang tạo sấm chớp. Thế rồi, bỗng dưng có khá đông người
tay cầm sẵn các ống nứa đựng đầy nước vẩy lên cao vào giữa
chỗ thuồng luồng và thần sét đang múa để giả làm mưa rào.
Qua cách cúng tế của các tộc người nói trên cho thấy, bản
chất của nghi lễ này là tục cầu mưa, tục thờ cúng thủy thần
nhưng giờ thì hầu hết đã bị mai một. Đó là một nghi lễ thể
hiện khát vọng hoà hợp giữa con người và thiên nhiên từ
thuở xa xưa của tổ tiên ta./.