Làm rõ luận điểm của Đảng ta về con đường đi lên của cách mạng Việt Nam: Tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Phần 1: Mở đầu Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán của Đảng ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tại Đại hội IX của Đảng, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp.

docx11 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 991 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Làm rõ luận điểm của Đảng ta về con đường đi lên của cách mạng Việt Nam: Tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: Mở đầu Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán của Đảng ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.  Tại Đại hội IX của Đảng, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Hiện nay, vấn đề nhận thức về sự lựa chọn con đường phát triển XHCN, bỏ qua chế độ TBCN, kiên trì phấn đấu theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội của các tầng lớp nhân dân ngày càng đầy đủ. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc nhận thức về tính tất yếu con đường quá độ tiến lên CNXH ở nước ta mang tính cấp thiết, có ý nghĩa định hướng, xây dựng một nước Việt Nam XHCN “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Làm rõ luận điểm của Đảng ta về con đường đi lên của cách mạng Việt Nam: Tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” làm bài thu hoạch kết thúc môn của mình. Phần 2: Nội dung 1. Khái niệm về chủ nghĩa xã hội Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng xã hội nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ XHCN khi những điều kiện vật chất và tinh thần cho sự thay thế đó đã ở mức độ nhất định và khi đã hình thành tình thế cách mạng. Cách mạng XHCN là một quá trình cải biến cách mạng toàn diện, triệt để, lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm lật đổ giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, thiết lập chính quyền mới, sử dụng chính quyền mới để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. 2. Tính tất yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH” [3, tr. 69]. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH). Song, không phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, đó là TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng đòi hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội TBCN và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...” [1, tr. 47]. Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan. Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được lý giải bởi: - Đây là sự lựa chọn mang tính xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành CNTB, dẫn đến những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang là động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...” điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. - Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế. Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” [2, tr.21]. Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến hành 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm, khuyết điểm do thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con đường quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” [4, tr.66]. Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta. 3. Phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm: Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Cùng với những thành tựu đạt được trên thì việc thực hiện các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế: Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Kinh tế tri thức chưa được quan tâm phát triển. Bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học còn nhiều bất cập. Văn hóa, xã hội còn có những mặt bất cập; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, còn có mặt, nhất là đạo đức, nhân cách chưa đáp ứng yêu cầu. Xây dựng Đảng về đạo đức chưa đạt mong muốn. Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, cải cách hành chính còn chậm. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ được nâng lên nhưng chưa bền vững. Trên cơ sở đó, cần bổ sung nhận thức về phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau: Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng bao trùm - mô hình phát triển bao gồm cả kinh tế, tài chính, văn hóa - xã hội, trong đó con người phải là trung tâm. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát triển các ngành kinh tế biển phù hợp điều kiện cụ thể. Tạo đột phá trong năng xuất, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Hai là, tạo bước đột phá trong đổi mới giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực lãnh đạo, quản trị đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0. Tăng cường xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh phát triển đất nước. Ba là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, chú trọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo; bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Giữ vững an ninh, an toàn trật tự xã hội cho phát triển đất nước. Chủ động ứng phó với những vấn đề an ninh phi truyền thống. Quốc phòng, an ninh là  nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, xuyên xuốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là nhiệm vụ sống còn của đất nước và dân tộc, trong đó mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn biển, đảo và giữ vững an ninh chính trị là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Bốn là, chủ động thực hiện các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại thế hệ mới; xử lý tốt các mối quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực. Năm là, thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn với kỷ cương, kỷ luật. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng, khơi dậy niềm tin, khát vọng, niềm tự hào dân tộc của người Việt Nam. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.  Sáu là, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, liêm chính, hành động vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ. Xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch, liêm chính, từng bước xây dựng Chính phủ điện tử; quản trị thông minh; xây dựng cơ chế kiểm soát hiệu quả quyền lực. Bảy, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức liêm khiết, có phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời tiếp tục quán triệt và xử lý tốt 9 quan hệ lớn theo tinh thần Đại hội XII và chủ động nhận thức, giải quyết tốt một số quan hệ phát sinh khác. Đó là quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu sách lược; quan hệ giữa phát huy nội lực và phát huy ngoại lực; quan hệ giữa thực hành dân chủ và thực hiện kỷ cương, pháp luật; quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong điều kiện mới. Phần 3: Kết luận Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử sự phát triển xã hội loài người là qúa trình phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Sự ra đời và tồn tại của một chế độ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định là do sự tác động của quy luật khách quan. Sự thay thế xã hội này bằng một xã hội khác văn minh và tiến bộ hơn cũng là một tất yếu lịch sử. Loài người đã trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội và đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội thứ năm: hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nước ta bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có tính chất lịch sử phù hợp với lợi ích dân tộc và nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Con đường đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu không thay đổi của cách mạng nước ta. Song CNXH là gì và Việt Nam đi lên CNXH bằng cách nào thì qua mỗi thời kỳ cách mạng chúng ta mới có được những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn và sâu sắc hơn. Nhưng trải qua hơn 25 năm đổi mới đất nước, thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được trong tiến trình cách mạng đã cho phép chúng ta một lần nữa khẳng định con đường đi lên CNXH là hoàn toàn đúng đắn. Vì thế Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.