Tóm tắt
Nằm trong dòng chảy của lễ hội truyền thống ven biển Bắc Bộ nhưng lễ hội đình Quan Lạn thuộc
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh vẫn có những điểm khác biệt so với các lễ hội truyền thống nói chung.
Là một lễ hội lịch sử, cũng đồng thời là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian, lễ hội đình Quan
Lạn mang sắc thái địa phương độc đáo và đậm nét văn hóa biển đảo của cư dân vùng biển Vân Đồn.
Bài viết khái quát về lễ hội và diễn trình của hội đua thuyền, đi sâu phân tích ý nghĩa một số nghi lễ,
hoạt động diễn ra trong lễ hội để làm rõ giá trị và sự khác biệt của lễ hội đình Quan Lạn.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lễ hội đình Quan Lạn: Ý nghĩa, giá trị và sự khác biệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 30 (Tháng 12 - 2019)14
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
LỄ HỘI ĐÌNH QUAN LẠN:
Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ VÀ SỰ KHÁC BIỆT
PHAN THỊ HUỆ
Tóm tắt
Nằm trong dòng chảy của lễ hội truyền thống ven biển Bắc Bộ nhưng lễ hội đình Quan Lạn thuộc
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh vẫn có những điểm khác biệt so với các lễ hội truyền thống nói chung.
Là một lễ hội lịch sử, cũng đồng thời là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian, lễ hội đình Quan
Lạn mang sắc thái địa phương độc đáo và đậm nét văn hóa biển đảo của cư dân vùng biển Vân Đồn.
Bài viết khái quát về lễ hội và diễn trình của hội đua thuyền, đi sâu phân tích ý nghĩa một số nghi lễ,
hoạt động diễn ra trong lễ hội để làm rõ giá trị và sự khác biệt của lễ hội đình Quan Lạn.
Từ khóa: Lễ hội truyền thống, đình Quan Lạn, hội bơi chèo Quan Lạn, hội đua thuyền, ý nghĩa, giá
trị, sự khác biệt
Abstract
In spite of being in the flow of traditional coastal festivals in the North, festival of Quan Lan
communal house, Van Don district, Quang Ninh province still has differences from traditional festivals
in general. The festival is both a historical festival and an activity of folk cultural belief. The festival of
Quan Lan communal house contains unique native nuance and maritime culture of the people living
in Van Don coasts. The article outlines the festival, the process of the boat racing festival, delves into
the meaning of some rituals, activities taking place in the festival to clarify the value and difference of
the festival in Quan Lan communal house.
Keywords: Traditional festival, Quan Lan communal house, Quan Lan boat racing festival,
meaning, value, difference
1. Khái quát về lễ hội đình Quan Lạn
Đảo Quan Lạn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh được biết đến không chỉ là địa danh nổi
tiếng với những bãi biển đẹp (như Minh Châu,
Sơn Hào, Quan Lạn), hệ sinh thái rừng trâm
thuần chủng, hệ sinh thái rừng ngập mặn, các
di tích lịch sử quan trọng gắn liền với quá trình
dựng nước, giữ nước của dân tộc (như thương
cảng Vân Đồn, cụm di tích lịch sử và kiến trúc
nghệ thuật Quan Lạn). Đây còn là một vùng
văn hóa đặc sắc - văn hóa vùng biển đảo, được
thể hiện rõ nét qua lễ hội truyền thống đình
Quan Lạn.
Lễ hội đình Quan Lạn, còn gọi là lễ hội
truyền thống Vân Đồn hay hội bơi chèo Quan
Lạn, diễn ra từ ngày 10 đến ngày 20 tháng
Sáu âm lịch hàng năm: “Dù ai đi ngược về xuôi/
Tháng Sáu âm lịch chèo bơi thì về”. Lễ hội là dịp
tưởng nhớ trận chiến Vân Đồn trên dòng sông
Mang lịch sử vào năm 1288 và cầu mong các
vị thần phù hộ cho dân chúng tránh được bão
giông, đi biển đánh bắt được nhiều tôm cá.
Nhân vật chính của lễ hội là các nhân vật
lịch sử có thật: Trần Khánh Dư, một vị tướng
tài ba có công lớn thời Trần, được vua Trần
phong tước Nhân Huệ Vương, chức Phiêu Kỵ
đại tướng quân. Ông là một vị tướng văn võ
15Số 30 (Tháng 12 - 2019)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
song toàn, gắn bó với mảnh đất Vân Đồn; ba
anh em họ Phạm người Quan Lạn: Phạm Công
Chính, Phạm Quý Công và Phạm Thuần Dụng
là các phó tướng của Trần Khánh Dư cùng
tham gia chỉ huy và hy sinh trong trận chiến
Vân Đồn năm 1288. Ngoài ra, tại đình Quan
Lạn, nhân dân còn thờ các vị thần, nhân vật
lịch sử: Vua Lý Anh Tông, người có công thành
lập thương cảng Vân Đồn năm 1149; Không
Lộ, Giác Hải, hai vị thiền sư thời Lý, là ông tổ
của nghề đúc đồng nhưng ở đây lại được xem
như ông tổ của nghề chài lưới, đánh bắt hải
sản; công chúa Liễu Hạnh, người có công bảo
vệ đất nước; các vị Tiên công đã có công khai
phá vùng đất này.
Các nghi lễ của lễ hội được thực hiện tại
cụm di tích kiến trúc nghệ thuật Quan Lạn gồm
đình, chùa, miếu Đức ông và nghè Trần Khánh
Dư, nhưng không gian lễ hội bao trùm cả khu
vực xã đảo Quan Lạn và các vùng lân cận.
Lễ hội gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ có
các nghi lễ chính như: Lễ mộc dục, lễ treo cờ
hội, lễ Cai đám, lễ Nghinh thần, lễ khao quân,
lễ tế Yên vị, lễ tế tại chùa, lễ tế tại miếu Đức
Ông, lễ cầu bình yên, lễ xe giá hoàn cung1.
Phần hội có nhiều trò chơi
dân gian như: đánh vật,
kéo co, cờ người, đấu long
đao, cùng nhiều hoạt
động văn hóa, văn nghệ,
thể thao.
Tâm điểm của lễ hội
đình Quan Lạn là Hội
đua thuyền. Trò diễn này
nhằm tái hiện trận chiến
Vân Đồn trên dòng sông
Mang lịch sử do Trần
Khánh Dư chỉ huy đánh
tan hơn 500 chiếc thuyền
lương của quân giặc
Nguyên Mông góp phần làm nên chiến thắng
của quân và dân nhà Trần trong cuộc kháng
chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ III vào
năm 1288. Sở dĩ dân làng chọn ngày 18 tháng
Sáu là ngày đua thuyền, vì đó là ngày dân làng
đón sắc của vua Trần ban thưởng công trạng
cho quân dân Vân Đồn và những tướng sĩ đã
anh dũng hy sinh trong trận chiến Vân Đồn, có
công tiêu diệt giặc Nguyên Mông.
Hội đua thuyền bắt đầu từ lúc 14 giờ, ngày
18 tháng Sáu, vị trí tổ chức cuộc đua ở bến
Đình trước khu di tích đình, chùa, miếu Quan
Lạn. Từ ngày 13 tháng Sáu, dân làng chia làm
hai phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ, lựa
chọn tướng Văn, tướng Võ và các tay chèo, lập
doanh trại để luyện quân, chuẩn bị thuyền
đua, hai giáp làm lễ tế tại miếu Đức Ông để
nhận lệnh lên đường (Ảnh 1). Khoảng 14 giờ
30 phút, lệnh của trung tâm được phát ra, hai
cánh quân từ giáp Văn và giáp Võ “hành quân”
từ doanh trại ra sân miếu, vừa đi vừa múa long
đao, vừa đánh trống, cồng, phèng, la liên tục
để biểu dương lực lượng. Khi hai bên gặp nhau
tại điểm giữa trung tâm, tướng và quân reo hò
như sấm dậy, binh khí chạm vào nhau tưởng
Ảnh 1. Hai cánh quân giáp Văn và giáp Võ xếp hai hàng
trước Miếu Đức Ông đợi lệnh xuống thuyền (Nguồn: Huy Hoàng Photo)
Số 30 (Tháng 12 - 2019)16
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
như cuộc giao tranh trên chiến trường, hai
tướng cầm đao dẫn đường, khi tung người lên,
khi né tránh đối phương.
Sau khi diễu hành đường lớn ba vòng,
hai tướng dẫn quân theo hai cổng chạy vào
trung tâm sân miếu Đức Ông, lượn ba vòng
tròn khép kín. Quân Văn ở vòng trong, quân
Võ ở vòng ngoài. Ở đây bắt buộc tướng và
quân của hai giáp phải chạy nhanh và theo sát
nhau. Sau đó tướng, quân hai giáp xếp thành
hai hàng đứng trang nghiêm trước bàn thờ
tưởng niệm. Phát lệnh hai hồi trống báo hiệu
tới phần việc của các vị chức sắc trong làng,
lần lượt các quan chức, hai tướng lên thắp
nhang, tiếp đến hai tướng vào lễ thần rồi đưa
quân xuống thuyền rồng.
Đội hình xuống thuyền là 50 người, trong
đó có 01 tướng, 34 quân chèo, 15 người còn
lại gồm: trọng tài, người sử dụng sào, người sử
dụng cồng, người lái, người đánh trống, người
cầm cờ lọng, người phục vụ nước, chống đắm,
dương văn, chỉ huy quân chèo (Ảnh 2).
Đường đua trên biển dài khoảng 1.500m.
Ngoài biển có cắm hai lá cờ trắng làm mốc
dành cho hai đội. Tại đây có hai trọng tài
đứng chứng kiến cuộc đua. Trong khi đua, hai
thuyền chỉ được bơi trong khu vực hai hàng
cờ. Mốc bắt đầu từ cây cờ trắng ngoài biển.
Hai thuyền cùng hướng mũi về phía đó. Đến
nơi, nhổ cờ trắng trao cho nhau rồi cùng nghỉ
ngơi khoảng 30 phút để chuẩn bị bước vào
cuộc đua. Thuyền của giáp Đông Nam Văn rẽ
sang phía đông (thuyền Đông), thuyền của
giáp Đoài Bắc Võ rẽ sang phía tây (thuyền Tây).
Thuyền Đông rẽ sang đông quay vòng về phía
tây, thuyền Tây rẽ sang tây vòng về phía đông,
cứ như vậy ba vòng rồi theo hướng bến đình
mà trở lại, hai tướng đứng ở mũi thuyền hiên
ngang hùng dũng. Cờ tướng, cờ trung phất lên
liên tục, đuôi cờ trung luôn sát đầu hai hàng
quân chèo.
Sau ba vòng lượn, hai thuyền chèo vào bến
để hai tướng đọc lời rao. Tướng Văn đọc trước,
tướng Võ đọc sau. Nội dung các bài rao nói lên
lòng tự hào về truyền thống của cha ông, quyết
tâm xây dựng quê hương và lời cầu mong mưa
thuận gió hoà, trời yên biển lặng, công việc làm
ăn phát đạt. Lời rao cũng như lời hịch, lời cáo
hoặc lời truyền, một hình thức bố cáo phổ biến
và phù hợp với thời đại nhà Trần xưa.
Dứt lời rao của hai
tướng, các tay chèo
quay thật nhanh hai mũi
thuyền rồng ra phía trước
và dựng toàn bộ dầm,
chèo lên be thuyền và ở
tư thế chèo. Khi hiệu lệnh
xuất phát, hai thuyền lao
như tên bắn tới mục tiêu
quy định. Lúc này quân
tướng không một ai được
nghỉ ngơi, ra sức đâm mái
dầm thật sâu, vớt nước
thật nhanh, tất cả đều
theo nhịp trống, theo Ảnh 2. Đua thuyền trong lễ hội đình Quan Lạn (Nguồn: Huy Hoàng Photo)
17Số 30 (Tháng 12 - 2019)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tiếng hô “chèo”. Người điều khiển thuyền làm
sao để khi quay thuyền, mặc chiều gió thuận
hay nghịch, phải lợi dụng được sức gió, chống
sào và cầm lái quay thuyền cho nhanh.
Điểm về đích là một sợi dây thừng chăng
ngang, nếu đầu thuyền rồng của bên nào
chạm vào trước thì thuyền đó đạt giải nhất.
Trong thời gian hai thuyền đua nhau, trên bờ
dân làng và những người xem hội reo hò, cổ vũ
không ngớt. Nếu nhìn thấy thuyền nào có khả
năng vào trước thì tiếng reo hò cổ vũ cho bên
đó lại càng vang dội hơn. Thuyền nào chạm tới
bến trước, tướng sẽ được quân cõng chạy tới
cột treo giải ở miếu Đức Ông, vuốt vào khăn
đỏ là chiến thắng. Ngày nay, chỉ cần tướng kéo
quân về lễ đài miếu Đức Ông để ban tổ chức
trao giải. Dù thắng hay thua, hai tướng đều
dẫn quân đứng nghiêm trang trước miếu Đức
Ông để vào lễ thần, sau đó mới dẫn quân về
doanh trại nghỉ ngơi.
2. Ý nghĩa, giá trị của lễ hội đình Quan Lạn
Tồn tại hàng trăm năm qua, lễ hội đình
Quan Lạn đã ăn sâu vào tiềm thức của người
dân nơi đây. Lễ hội gắn liền với mảnh đất, con
người, nét văn hoá đặc trưng của một vùng
biển đảo mang nhiều ý nghĩa, giá trị lịch sử,
văn hóa, giáo dục và nhân văn sâu sắc. Điều
này được thể hiện thông qua một số nghi lễ,
hoạt động diễn ra trong lễ hội như sau:
- Lễ treo cờ hội, tục khóa làng cùng tiếng
trống thu quân vào ngày 10 tháng Sáu mang
ý nghĩa báo hiệu có giặc xâm phạm bờ cõi
Tổ quốc. Từ ngày này đến khi kết thúc lễ hội
không ai được ra khỏi làng, nếu ai trái lệnh sẽ
bị đốt thuyền. Sở dĩ lệnh nghiêm khắc như vậy
vì xưa kia khi có giặc là có lệnh khóa làng để
đảm bảo an toàn cho người dân. Tục khóa làng
mở đầu vào hội thể hiện tâm thế ngày hội lịch
sử, ngày hội đánh giặc truyền thống của nhân
dân xã đảo.
- Việc dựng doanh trại để luyện quân, diễu
hành trên bờ, trên biển, tiếng trống, chiêng,
thanh la, cùng tiếng reo hò, tiếng binh khí
chạm vào nhau mỗi khi tướng và quân hai
bên gặp nhau tại điểm giữa trung tâm khi diễu
hành, tưởng như cuộc giao tranh trên chiến
trường thực sự, cùng lời rao của tướng Văn,
tướng Võ trước khi vào cuộc đua... Tất cả như
tái hiện “Hào khí Đông A” của quân và dân nhà
Trần thế kỷ XIII, thể hiện truyền thống lâu đời
của mảnh đất Vân Đồn oai hùng.
- Trang phục của người tham gia đua
thuyền: quân giáp Văn mặc quần xanh áo
trắng, chân quấn xà cạp xanh; quân giáp Võ
trang phục quần xám đỏ, đầu thắt đai xanh
(cũng có khi quân giáp Văn trang phục màu
xanh viền vàng, đầu chít khăn vàng; quân
giáp Võ trang phục áo đỏ, viền xanh, đầu chít
khăn đỏ); Tướng Văn mặc áo xanh, tướng Võ
mặc áo đỏ (gọi là áo phù giá) thắt đai chéo hai
bên, cả hai đều có mũ, giày và thanh long đao.
Hai tướng được hóa trang “mắt phượng, mày
ngài” Tất cả nhằm khắc họa khí chất trung
dũng, oai phong, lẫm liệt, văn võ song toàn
của tướng Trần Khánh Dư; sự tinh nhuệ, thiện
chiến, kỷ luật cao của binh sĩ nhà Trần.
- Hành động của quân và tướng hai giáp
(giáp Văn, giáp Võ) diễu hành trên bờ 3 vòng,
chạy trong sân miếu Đức Ông 3 vòng, cũng
như việc hai thuyền khởi động 3 vòng trên
biển, mang ý nghĩa tượng trưng cho ba lần
đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông của
quân dân nhà Trần thế kỷ XIII.
- Hai thuyền diễu hành trên biển có chỗ
nghỉ ước chừng 30 phút, tượng trưng lúc quân
ta mai phục chỗ khúc sông hẹp nhất, bất ngờ
tung ra đánh phủ đầu tiêu diệt đoàn tải lương
của giặc Nguyên Mông tại dòng sông Mang
(địa danh Vân Đồn xưa).
Số 30 (Tháng 12 - 2019)18
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Khi đua, các tay chèo ra sức đâm mái dầm
thật sâu, vớt nước thật nhanh, tất cả đều theo
nhịp trống, theo tiếng hô “chèo”; khi quay
thuyền, phải biết lợi dụng sức gió, chống sào
và cầm lái quay thuyền cho nhanh. Đó chính
là bí quyết làm nên chiến thắng của mỗi chiến
thuyền, đồng thời cũng thể hiện tính đoàn kết,
sự đồng tâm hợp lực và kinh nghiệm đi biển
của cư dân nơi đây.
- Việc làm lễ và thả đèn hoa đăng tối 17 tháng
Sáu mang ý nghĩa cầu cho những linh hồn chết
trận, kể cả những linh hồn quân giặc Nguyên
Mông thua trận, được siêu thoát, được về quê
bình an. Cũng vì nghĩa này mà các cây đèn hoa
đăng có nhiều màu: màu xanh tượng trưng cho
những người chết trẻ, màu hồng tượng trưng
cho người lính, màu vàng tượng trương cho
những người tướng trong quân đội nhà Trần;
màu đen và màu tím tượng trưng cho linh hồn
quân giặc Nguyên Mông Màu sắc của các cây
đèn hoa đăng thể hiện truyền thống nhân văn
và lòng vị tha của dân tộc Việt Nam.
- Việc hóa mã các ngựa thần, hai chiếc
thuyền giấy trong lễ cầu bình yên sáng ngày
20 tháng Sáu mang ngụ ý: trang bị phương
tiện cho các linh hồn trở về quê hương sau khi
kết thúc lễ hội. Đây là nghi thức mang đậm nét
tín ngưỡng của cư dân đồng bằng Bắc Bộ.
- Các nghi lễ, bài diễn xướng, văn tế, lời
rao, trong lễ hội đều bày tỏ lòng biết ơn,
trân trọng và ước muốn của nhân dân vùng
biển đảo với các vị anh hùng dân tộc, với lực
lượng siêu nhiên; thể hiện đạo lý “uống nước
nhớ nguồn” tưởng nhớ tôn vinh với người có
công với nước, với làng; giáo dục thế hệ trẻ giữ
vững truyền thống dựng nước và giữ nước của
cha ông và có ý thức giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa của dân tộc.
Những nghi lễ, những hoạt động diễn ra
trong lễ hội cho thấy, lễ hội đình Quan Lạn
không chỉ là một sinh hoạt văn hoá dân gian
đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, văn hoá và sinh
hoạt tinh thần của người dân Quan Lạn (nét
văn hóa đặc sắc của cư dân vùng biển), mà
còn là một lễ hội lịch sử có quy mô tầm vóc
quốc gia, thể hiện tinh thần thượng võ chống
giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền đất nước.
Thông qua lễ hội, bản sắc văn hoá và lòng tự
hào dân tộc ngày càng được khẳng định, từ đó
xây dựng niềm tin, củng cố tình đoàn kết, gắn
bó của người dân xã đảo. Với những ý nghĩa và
giá trị đó, lễ hội đình Quan Lạn là một di sản
văn hóa quý báu cần được giữ gìn, bảo tồn và
phát huy.
3. Sự khác biệt của lễ hội đình Quan Lạn
Lễ hội đình Quan Lạn có những điểm tương
đồng về nghi lễ, nghi thức thờ cúng và tế lễ
như các lễ hội truyền thống nói chung, nhưng
bên cạnh đó vẫn có nhiều điểm khác biệt:
- Về địa điểm tổ chức lễ hội: Điều khác biệt
của lễ hội đình Quan Lạn là diễn ra ở nhiều di
tích: đình, chùa, miếu, nghè, chứ không chỉ
diễn ra ở một di tích đình/đền/chùa/miếu như
các lễ hội ở làng quê khác. Ở lễ hội đình Quan
Lạn, đình cũng đóng một vai trò quan trọng.
Vào hội, dân làng rước tượng, sắc phong của
Trần Khánh Dư từ nghè về đình, tổ chức nhiều
nghi lễ của lễ hội tại đây. Song các hoạt động
chính của hội đua thuyền lại diễn ra ở miếu
Đức Ông. Có lẽ do đặc trưng là lễ hội mang
đậm dấu ấn lịch sử đánh giặc, nên hoạt động
chủ yếu được tổ chức ở miếu Đức Ông, là nơi
thờ một trong các phó tướng của Trần Khánh
Dư, người Quan Lạn, trực tiếp chiến đấu và hy
sinh trong trận chiến Vân Đồn xưa.
- Về các vị thần được thờ cúng trong lễ hội:
Thông thường, mỗi làng khi tổ chức lễ hội chỉ
trình báo với một hay hai thần (hoặc thánh).
Trong khi đó, lễ hội đình Quan Lạn cũng là
19Số 30 (Tháng 12 - 2019)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
trình thần, hầu thần nhưng không phải với
một hay hai thần mà là đa thần: ngoài thờ Trần
Khánh Dư và ba anh em họ Phạm, nhân dân
còn thờ các vị thần, nhân vật lịch sử và các vị
tiên công.
- Về hội đua thuyền trong lễ hội: Nhiều nơi
trong tỉnh Quảng Ninh cũng tổ chức đua
thuyền/bơi chải vào dịp lễ hội như: Hội đua
thuyền trong lễ hội đình Trà Cổ chỉ mang tính
hội nhằm vui chơi, giải trí; hay lễ hội bơi chải
Bạch Đằng ở đảo Hà Nam lại mang đậm dấu ấn
nông nghiệp là cầu mùa màng tốt tươi. Nhưng
hội đua thuyền trong lễ hội đình Quan Lạn vừa
mang tính lễ, vừa mang tính hội. Ở đây, hội đua
thuyền diễn ra dưới hình thức là một cuộc đua
tài, diễn lại trận chiến Vân Đồn năm 1288, ba
lần đánh thắng quân Nguyên Mông của quân
dân nhà Trần liên quan tới các danh tướng là
Trần Hưng Đạo và Trần Khánh Dư, cùng các
nghi thức tế lễ cáo thần, dâng hương nghĩa
sĩ, diễu võ dương oai, múa đao dẹp đường;
nội dung lời rao của tướng Văn, tướng Võ nói
lên lòng tự hào về truyền thống của cha ông,
quyết tâm xây dựng quê hương và cầu mong
mưa thuận gió hoà, một năm trời yên biển
lặng, công việc làm ăn phát đạt. Như vậy, lễ hội
vừa mang đậm tính lịch sử, vừa mang dấu ấn
của lễ hội nông nghiệp, cầu mong mùa màng
tốt tươi.
- Về thành viên tham gia hội đua thuyền: Ở
các hội đua thuyền nói chung, dân làng thường
chọn những người tham gia đua thuyền là
những thanh niên khỏe mạnh, thể lực tốt, bơi
lội giỏi và phải vững tay chèo, không có tướng
chỉ huy cuộc đua. Ở lễ hội đình Quan Lạn, người
tham gia đua thuyền ngoài việc đảm bảo các
tiêu chí như vậy, còn có các tiêu chí khác như:
bắt buộc phải là người địa phương, đã làm lễ
cai đám từ khi 10 tuổi. Đặc biệt, dân làng còn
phong tướng (tướng Văn, tướng Võ). Người
được phong tướng đảm bảo các tiêu chí: có độ
tuổi từ 45 tuổi trở lên, có tài đức, có địa vị, uy tín
với làng xã, thành đạt trong công việc, gia đình
vẹn toàn, hạnh phúc, con cháu trưởng thành.
Tướng Văn ở giáp Đông Nam, tướng Võ ở giáp
Đoài Bắc. Người được phong tướng có quyền
tham vấn việc làng, võng lọng trong lễ hội,
chủ trì đội đua thuyền; có nghĩa vụ khao quân,
khao nguyên lão, nguyên tướng; hiệu triệu dân
làng theo gương tiền nhân tiên công mở đất,
bảo vệ non sông hải đảo. Đây là nét riêng độc
đáo chỉ có trong lễ hội đình Quan Lạn.
- Về giải thưởng: Ở các hội đua thuyền nói
chung chỉ trao giải cho đội thắng cuộc, nhưng
ở hội đua thuyền Quan Lạn, dù thắng hay thua
thì cả hai đội đều được ban tổ chức trao giải,
bởi ở đây giải của cuộc đua chỉ là vấn đề rất
phụ. Vấn đề chính là các thành viên được tham
gia vào hội đua. Đó vừa là niềm tự hào, vừa là sự
tưởng nhớ bái vọng về những năm tháng hào
hùng trong lịch sử giữ nước của ngư dân biển
đảo. Đây mới là ý nghĩa chân chính mà mỗi
người dân làng Quan Lạn bao đời hướng tới.
Ngoài những điểm khác biệt nêu trên, lễ
hội đình Quan Lạn còn mang những nét văn
hóa riêng của người dân Quan Lạn:
- Tiếng trống thu quân được đánh vào ngày
10 tháng Sáu. Đây là một kiểu đánh trống
truyền thống đặc biệt với giai điệu trầm bổng
rất riêng. Người đánh trống thể hiện nhiều
động tác khoẻ khoắn nhưng rất uyển chuyển
như múa. Người đánh trống không do truyền
dạy mà nó như một cơ duyên, phải tự nghe,
hiểu và tự đánh theo, nếu có năng khiếu mới
thuần thục được. Nhiều người nghe và thích
đánh trống nhưng rất ít người cảm nhận và
đánh được điệu trống này.
- Điệu múa Long đao được thể hiện trong
cuộc diễu hành của đội đua thuyền. Đao là
Số 30 (Tháng 12 - 2019)20
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
một vũ khí của các võ tướng, với những thế
võ binh khí chủ yếu là đỡ, chém xuống, chém
ngược, che toàn thân (quay tròn đao). Nó biểu
tượng của sự dẻo dai, rèn luyện sức khỏe và
tinh thần thượng võ và sức mạnh của người
dân đảo Quan Lạn. Đây là một trò diễn độc
đáo của lễ hội đình Quan Lạn không nơi nào
có được.
Quy tụ nhiều ý nghĩa, giá trị và sự khác biệt
mang đặc trưng văn hóa vùng biển đảo, cùng
với sự thấm đẫm tinh thần thượng võ dân tộc,
lễ hội đình Quan Lạn không chỉ có sức thu hút
đối với đông đảo người dân trên đảo, mà còn
có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và
ngoài nước. Mỗi dịp lễ hội là dịp người dân
trên đảo thể hiện tinh thần đoàn kết, sự gắn
kết cộng đồng làng xã. Lễ hội là cơ hội để họ
được sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, là chốn