Lý Nam Đế (503–548) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà
nước Vạn Xuân trong lịch sử ViệtNam. Ông tên thật là Lý Bí , còn gọi là Lý Bôn[1],
người làng Thái Bình, phủ Long Hưng[2], Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thị xã
Sơn Tây, Hà Nội). [1] Tuy nhiên, theo nhận định gần đây, quê gốc của LýNamĐế
thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay.[3]
11 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lí Bí - Lý Nam Đế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lí Bí - Lý Nam Đế
Lý Nam Đế (503–548) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà
nước Vạn Xuân trong lịch sử ViệtNam. Ông tên thật là Lý Bí , còn gọi là Lý Bôn[1],
người làng Thái Bình, phủ Long Hưng[2], Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thị xã
Sơn Tây, Hà Nội). [1] Tuy nhiên, theo nhận định gần đây, quê gốc của LýNamĐế
thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay.[3]
LýNamĐế có tài văn võ. Ông đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được
quân đô hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô
ở Long Biên (chưa rõ ở đâu, có lẽ gần thành phố Bắc Ninh ngày nay).
Quê hương
Nhiều sách sử cho biết tổ tiên của LýNamĐế là người Trung Quốc, vào cuối
thời Tây Hán thì tránh sang ở ViệtNam(lúc đó đang là thuộc địa của Trung Quốc) để
trốn nạn binh đao. Qua 7 đời, đến đời Lý Bí thì dòng họ Lý đã ở ViệtNamđược hơn 5
thế kỷ. Chính sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân".[4]
Theo sách Văn minh Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh căn cứ các thần phả thì
Lý Bí không phải là thế hệ thứ 7 mà là thế hệ thứ 11 của họ Lý từ khi sang ViệtNam.
Khoảng cách 11 thế hệ trong 5 thế kỷ hợp lý hơn là 7 thế hệ trong 5 thế kỷ. Theo đó,
đời thứ 7 là Lý Hàm lấy bà Ma thị là người Việt, sinh ra Lý Thanh. Lý Thanh phục vụ
dưới quyền thứ sử Giao châu là Đàn Hòa Chi nhà Lưu Tống thời Nam Bắc Triều
(Trung Quốc). Lý Thanh sinh ra Lý Hoa, Lý Hoa sinh ra Lý Cạnh. Lý Cạnh sinh ra Lý
Thiên Bảo và Lý Bí[5]. Nguồn tài liệu khác cho biết vợ Lý Cạnh là Phí thị, ngoài Lý
Thiên Bảo và Lý Bí còn sinh ra Lý Xuân và Lý Hùng.[4]
Về quê hương Lý Bí, các nguồn tài liệu ghi khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư
và Lịch triều hiến chương loại chí ghi ông là người Thái Bình, phủ Long Hưng. Theo
Khâm định Việt sử thông giám cương mục: "tên Thái Bình đặt từ thời Đường (618-
907), còn Long Hưng đặt từ thời Trần (1225-1400)", như vậy gọi Thái Bình và Long
Hưng là gọi theo tên sau này đặt. Các sử gia nhà Nguyễn xác định Long Hưng thuộc
Thái Bình và cho rằng quê Lý Bí thuộc Thái Bình. Việt Nam Sử Lược ghi rằng phủ
Long Hưng thuộc tỉnh Sơn Tây (cũ). Các nhà nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng: thời
Bắc thuộc, tỉnh Thái Bình hiện nay vẫn là biển. Tên gọi Thái Bình thời Bắc thuộc nằm
trong khoảng vùng Sơn Tây[6]. Tại khu vực này có nhiều đền thờ Lý Bí và những
người gắn bó với ông như Triệu Túc, Phạm Tu, Lý Phật Tử.
Nhân kỷ niệm 1.470 năm (542 - 2012) ngày cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ,
ngày 6/10 tại Hà Nội, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thái Nguyên tổ
chức Hội thảo khoa học "Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua
Lý Nam Đế" với sự tham dự của đông đảo các nhà sử học, nhà khoa học và nhân dân
địa phương (Hà Nội, Thái Nguyên, Phú Thọ,...). Dựa trên cơ sở tư liệu điền dã thực
địa ở các vùng: xã Tiên Phong - huyện Phổ Yên và huyện Thái Thụy, kết hợp với thần
tích, truyền thuyết còn lưu giữ tại các xã Giang Xá, Lưu Xá (huyện Hoài Đức), 27
tham luận tại hội thảo đưa ra kết luận vua Lý Nam Đế có quê gốc ở thôn Cỏ Pháp, xã
Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.[3][7][8]
Về kinh đô của nước Vạn Xuân: "LýNamĐế có tài văn võ. Ông đã lãnh đạo
nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước
Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Về Thành long Biên: Thành
Long Biên toạ lạc tại xã Hoà Long huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Hoà
Long. thành phố Bắc Ninh.( Sách Dư địa chí Bắc Ninh). Hiện nay tại xã Hoà Long,
thành phố Bắc Ninh còn rất rõ dấu tích một dạng thành cổ. Thành cổ nằm sát đê sông
Cầu, có dạng hình tròn, thành nội là một ốc đảo dạng hình tròn có diện tích khoảng
50ha; hào nước bao quanh chỗ rộng nhất đến 147m, chỗ hẹp nhất cũng hơn 100m,chu
vi ngoài của hào nước dài 3340m, ngoài hào nước có đường bao quanh dài 3865m.
Tổng diện tích khu vực này là 112,5 ha.
Tuổi trẻ
Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503). Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ ra
là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất; 7 tuổi thì mẹ
qua đời. Ông đến ở với chú ruột. Một hôm, có một vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua,
trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về chùa nuôi dạy. Sau hơn 10
năm rèn sách chuyên cần, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ
kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.
Lý Bí có tài, được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở
Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay).[4]
Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người.
Do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác, Lý Bí bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã
chống lại chính quyền đô hộ.
Đánh đuổi quân Lương và Lâm Ấp
Khởi nghĩa đuổi Tiêu Tư
Kháng chiến của ViệtNam
Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tù trưởng ở Chu
Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục phục tài đức của ông
nên đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Tinh Thiều, một người giỏi từ chương,
từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng chỉ cho chức "gác cổng
thành", nên bỏ về Giao Châu theo Lý Bí. Ngoài ra trong lực lượng của Lý Bí còn có
một võ tướng là Phạm Tu đã ngoài 60 tuổi. Thần phả còn ghi nhận thêm các tướng
theo giúp Lý Bí là Trịnh Đô, Lý Công Tuấn.[9]
Lý Bí liên kết với các châu lân cận cùng chống lại Tiêu Tư. Cuối năm 541, Lý
Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Theo sách Lương thư của
Trung Quốc, Tiêu Tư liệu thế không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của
cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng châu[10]. Quân của Lý Bí
đánh chiếm lấy thành Long Biên.
Tuy Tiêu Tư đã bỏ chạy nhưng Lý Bí mới kiểm soát được vùng Bắc Bộ Việt
Nam hiện nay, các châu phía nam vẫn trong tay nhà Lương. Tháng 4 năm 542, Lương
Vũ Đế sai Thứ sử Việt châu là Trần Hầu, thứ sử La châu là Ninh Cự, thứ sử An châu
là Úy Trí, thứ sử Ái châu là Nguyễn Hán cũng hợp binh đánh Lý Bí. Nhưng Lý Bí đã
chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía nam, làm chủ toàn
bộ Giao châu.[11]
Đánh lui cuộc phản công của nhà Lương
Cuối năm 542, Lương Vũ Đế lại sai thứ sử Giao châu là Tôn Quýnh, thứ sử
Tân châu là Lư Tử Hùng sang đàn áp. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sợ thế mạnh của Lý
Bí nên không dám tiến quân, xin khất tới mùa thu năm sau. Thứ sử Quảng Châu là
Hoán (theo Trần thư là Tiêu Ánh) không cho, Tiêu Tư cũng thúc giục, nên Quýnh và
Hùng buộc phải tiến quân.
Được tin quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp
Phố đón đánh. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đi đến Hợp Phố, bị quân Lý Bí đánh bại,
10 phần chết đến 6-7 phần, quân tan rã.
Chiến thắng này giúp Lý Bí kiểm soát toàn bộ Giao châu, tức là miền Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ ViệtNam, cộng thêm quận Hợp Phố thuộc Quảng Đông, Trung Quốc
hiện nay.[12]
Đánh đuổi Lâm Ấp
Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía nam, vua
Lâm Ấp định nhòm ngó Giao châu.
Biên giới giữa Giao châu và Lâm Ấp lúc đó là dãy Hoành Sơn. Tháng 5 năm
543, vua Lâm Ấp mang quân xâm chiếm quận Nhật Nam và tiến đến quận Cửu Đức.
Lý Nam Đế sai Phạm Tu cầm quân vào nam đánh Lâm Ấp.
Sử sách không mô tả rõ diễn biến trận đánh này, chỉ ghi sơ lược: Phạm Tu tiến
quân vào Nam đánh tan quân Lâm Ấp ở Cửu Đức khiến vua Lâm Ấp phải bỏ
chạy.[13]
Có ý kiến cho rằng người đi đánh Lâm Ấp là Lý Phục Man chứ không phải
Phạm Tu và đây là 2 vị tướng khác nhau; lại có ý kiến cho rằng chính Phạm Tu là Lý
Phục Man, vì có công đánh Lâm Ấp mà được ban họ Lý, đổi tên Phục Man (chinh
phục người Man).[14]
Dựng nước Vạn Xuân
Năm 544, tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là
Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn
rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng,
Hà Nội). Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Thành lập triều đình với hai ban văn,
võ. Lấy Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban
võ.
Chạy về động Khuất Lão
Năm 545, tháng 6, nhà Lương cho Dương Thiêu (Thiệu hay Phiêu) làm thứ sử
Giao Châu, Trần Bá Tiên[15] làm tư mã, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu
là Tiêu Bột hội với Phiêu ở Giang Tây.[16]
Trần Bá Tiên đem quân đi trước. Khi quân của Bá Tiên đến Giao Châu, Lý
Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô
Lịch, tướng Tinh Thiều tử trận. Ông chạy về thành Gia Ninh (xã Gia Ninh, huyện
Vĩnh Lạc tỉnh Vĩnh Phúc cũ ngày nay thuộc xã Thanh Đình, thành phố Việt Trì, tỉnh
Phú Thọ.). Quân Lương đuổi theo vây đánh.
Tháng giêng năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh, tướng
Phạm Tu tử trận. LýNamĐế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng
ở cửa sông Gia Ninh.
Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, tháng 8, ông đem 2 vạn quân
từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Phú
Thọ), đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ đóng lại ở cửa hồ
không dám tiến vào. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao 7 thước, tràn đổ vào
hồ. Trần Bá Tiên nhân đó đem quân theo dòng nước tiến trước vào. Quân Vạn Xuân
không phòng bị, vì thế tan vỡ.
Lý Nam Đế phải lui giữ ở trong động Khuất Lạo, ông ủy cho con thái phó
Triệu Túc là tả tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên.
Qua đời
Năm 548, ngày 20 (ngày Tân Hợi) tháng 3 (tức ngày 13-4 dương lịch),
LýNamĐế ở động Khuất Lạo lâu ngày bị nhiễm lam chướng, ốm qua đời. Ông ở ngôi
được 5 năm (543-548), thọ 46 tuổi.
Theo sách "Việt Nam văn minh sử cương" của Lê Văn Siêu dẫn một số nguồn
tài liệu cổ, Lý Nam Đế ở lâu ngày trong động, vì nhiễm lam chướng nên bị mù hai
mắt. Vì vậy đời sau đến ngày giỗ thường phải xướng tên các đồ lễ để vua nghe thấy.
Lại cũng theo tài liệu này, có thuyết cho rằng không phải LýNamĐế ốm chết mà vua
bị người Lạo làm phản giết hại. Tướng Lý Phục Man cũng mất theo vua vì nạn
này.[17]
Hoàng hậu
Theo thần tích cổ, LýNamĐế có người vợ là Hứa Trinh Hòa, con ông Hứa
Minh và bà Bùi Thị Quyền người làng Đông Mai, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Bà được LýNamĐế lập làm hoàng hậu. Bà đã cùng chồng chinh chiến ngoài mặt trận
và bị tử trận do thuyền đắm tại hồ Điển Triệt cuối năm 546. Sau này bà được Triệu
Việt Vương lập đền thờ tại quê nhà.[18]
Bình luận
Theo sử gia Lê Văn Hưu:[19]
Binh pháp có câu: "Ba vạn quân đều sức, thiên hạ không ai địch nổi". Nay Lý
Bí có 5 vạn quân mà không giữ được nước, thế thì Bí kém tài làm tướng chăng? Hay
là quân lính mới họp không thể đánh được chăng? Lý Bí cũng là bậc tướng trung tài,
ra trận chế ngự quân địch giành phần thắng không phải là không làm được, nhưng bị
hai lần thua rồi chết, bởi không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh vậy.
Theo sử gia Ngô Sĩ Liên:[19]
Tiền LýNamĐế dấy binh trừ bạo, đáng là thuận đạo trời, thế mà cuối cùng đến
nỗi bại vong, là vì trời chưa muốn cho nước ta được bình trị chăng? Than ôi! Không
chỉ vì gặp phải Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh, mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng
lên trợ thế cho giặc, há chẳng phải cũng do trời hay sao?
Lý Nam Đế Lý Bí (544-602)
Năm Ất Dậu (265), nhà Tấn đánh bại Ngụy, Thục, Ngô, đất Giao Châu lại
htuộc về nhà Tấn. Nhà Tấn lại phong cho họ hàng ra trấn trị các nơi, nhưng các thân
vương cứ dấy binh chém giết lẫn nhau, làm cho anh em cốt nhục tương tàn, nước Tấn
nhanh chóng suy yếu. Nhân cơ hội ấy, các nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước
Lương, nước Hạ, nước Hán v.v...nổi lên chiếm cả vùng phía Bắc sông Trường Giang,
nhà Tấn chỉ còn vùng đất ở Đông Nam, phải dời đô về Kiến Nghiệp (Nam Kinh ngày
nay) gọi là nhà Đông Tấn.
Năm Canh thân (420), Lư Du cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía
Nam. Nước Trung Quốc phân ra làm Nam Triều và Bắc Triều. Bắc triều có nhà Ngụy,
nhà Tề và nhà Chu, nối nhau làm vua. Nam triều có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và
nhà Trần trị vì. Năm Kỷ mùi (479) nhà Tống mất ngôi nhà Tề kế nghiệp, trị vì được
22 năm thì nhà Lương lại cướp ngôi nhà Tề.
Nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm thứ sử Giao Châu. Cũng như các triều đại
phong kiến Trung Quốc thuở trước, các viên quan lại nhà Lương sang cai trị Giao
Châu đã áp dụng những biện pháp khắc khe, độc ác khiến dân Giao Châu cực khổ
trăm bề , người người đều oán giận. Bởi vậy, năm 542, Lý Bôn đã lãnh đạo dân Giao
Châu nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm giữ thành Long Biên lập nên nhà nước đầu
tiên.
Lý Bôn còn gọi là Lý Bí quê ở Long Hưng Thái Bình, xuất thân từ một hào
trưởng địa phương. Tổ tiên Lý Bí là người Trung Quốc, lánh nạn sang nứơc ta từ cuối
thời Tây Hán, khỏang đầu công nguyên. trải qua 07 đời, đến Lý Bí thì dòng họ Lý Bí
đã ở Việt Nam hơn 5 thế kỷ. Chính sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ
nhân"
Lý Bí sinh ngày12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503). Ông là con độc nhất
trong gia đình. Bố là Lý Tỏan mẹ là Lê Thị Oánh (người Ái Châu Thanh Hóa) từ nhỏ
Lý bí đã tỏ rõ là cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi
mẹ qua đời, Cậu bé bất hạnh phải đến ở với chú ruột. Một hôm có một vị pháp tổ tiền
sư đi qua, trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú; liền xin Lý Bí đem về chùa Linh Bảo
nuôi dạy. Quả hơn mười năm đèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư gia công chỉ
bảo, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ có tài văn võ
kiêm tòan, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Có thời kỳ Lý Bí ra làm quan
cho nhà Lương, nhận chức giám quân (kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu
(Đức Thọ, Hà Tĩnh). Nhưng do bất bình với bọn đô hộ tàn ác, Lý Bí bỏ quan, về quê,
chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Hưng) là
Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, mến tài đức Lý Bí đã đem quân nhập với
đạo quân của ông. Rồi Tinh Thiều, Phạm Tu, và hào kiệt các nỡicung nổi dậy hưởng
ứng.
Tháng giêng năm Nhâm tuất (542), Lý bí khởi binh tấn công giặc. Không
đương nổi sức mạnh của đoàn quân khởi nghĩa, thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ không dám
chống cự, vội mang của cải, vàng bạc đút lót cho Lý Bí xin được toàn tính mạng, chạy
về Trung Quốc. Không đầy 3 tháng, Lý Bí đã chiếm được hầu hết các quận, huyện và
thành Long Biên. Được tin Long Biên thất thủ, vua Lượnglâp tức ra lệnh cho quân
phản công chiếm lại. Bọ xâm lược vừa kéo sang bị Lý Bí cho quân mai phục đánh tan.
Đầu năm Quý dậu (543) vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược một
lần nữa. Tướng sx giặc còn khiếp sợ còn dùng dằng chưa dám tiến quân, thì Lý Bí đã
chủ động ra quân, đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố , miền cực bắc Châu Giao. Quân
Lương mười phần chết bảy, tám. Tướng địch bị giết gần hết, kẻ sống sót cũng bị vua
Lương bắt phải tự tử.
Tháng hai năm Giáp Tý (544) Lý Bí tụ xưng là Hòang Đế lấy hiệu là Lý Nam
Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân (ước muốn xã tắc truyền đến muôn đời), đặt kinh đô ở
miền cửa sông Tô Lịch ( Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ làm nơi vua quan họp
bàn việc nước. Triều đình gồm có hai ban văn võ. Phạm Tu được cử đứng đầu hàng
quan võ. Tinh Thiều đứng đầu hàng quan văn, Triệu Túc làm tái phó, Triệu Quang
Phục là tướng trẻ có tà cũng được trọng dụng.
Lý Nam Đế sai dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa ( Yên Phụ) lấy tên
là chùa Khai Quốc, sau này trỏ thành một trung tâm phật giáo và phật học lớn của
nước ta. Chùa Khai Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc, trên đảo cá vàng (Kim
Ngư) ở Hồ Tây (Hà Nội).
Việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, tự xưng là Hoàng Đế, lập một triều đình
riêng ngang hàng với nước lớn phương bắc là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân
tộc, sự bền vững muôn đời của đất trời phương nam.