Hệ Mặt Trời ban đầu tồn tại như một đám mây bụi và khí lớn, quay tròn,
gọi là tinh vân Mặt Trời. Tinh vân này gồm hydro và heli và những nguyên tố
hóa học nặng hơn khác được tạo ra từ vụ nổ của các ngôi sao rất nặng đã chết
trước đó. Vào khoảng 4,6 tỷ năm trước một ngôi sao ở gần tinh vân Mặt Trời
bắt đầu trở thành một siêu tân tinh. Vụ nổ supernova này đã gây sóng chấn động
nén ép tinh vân Mặt Trời. Lực hấp dẫn và quán tính làm đám mây của Hệ Mặt
trời trở nên phẳng dẹt như hình dạng một cái đĩa. Phần lớn khối lượng tập trung
vào tâm và nóng lên. Khi trọng lực làm cho vật chất cô đặc lại xung quanh các
tâm bụi, phần còn lại của đĩa bắt đầu phân tán thành những vành đai bụi và
thiên thạch. Các mảnh nhỏ va chạm vào nhau, chồng chất nhau kết thành những
mảnh lớn hơn. Những mảnh nằm cách tâm khoảng 150 triệu km sẽ tạo thành
Trái Đất. Khi Mặt Trời ngày càng cô đặc lại sẽ nóng lên đến mức đủ lớn sẽ kích
hoạt phản ứng tổng hợp nhiệt hạch và phát sáng như ngày nay.
58 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử hình thành Trái đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỊCH SỬ TRÁI ĐẤT
Trái Đất được hình thành cùng với Hệ Mặt Trời.
Mặt Trời, các hành tinh và hành tinh lùn trong Hệ Mặt Trời.
Hệ Mặt Trời ban đầu tồn tại như một đám mây bụi và khí lớn, quay tròn,
gọi là tinh vân Mặt Trời. Tinh vân này gồm hydro và heli và những nguyên tố
hóa học nặng hơn khác được tạo ra từ vụ nổ của các ngôi sao rất nặng đã chết
trước đó. Vào khoảng 4,6 tỷ năm trước một ngôi sao ở gần tinh vân Mặt Trời
bắt đầu trở thành một siêu tân tinh. Vụ nổ supernova này đã gây sóng chấn động
nén ép tinh vân Mặt Trời. Lực hấp dẫn và quán tính làm đám mây của Hệ Mặt
trời trở nên phẳng dẹt như hình dạng một cái đĩa. Phần lớn khối lượng tập trung
vào tâm và nóng lên. Khi trọng lực làm cho vật chất cô đặc lại xung quanh các
tâm bụi, phần còn lại của đĩa bắt đầu phân tán thành những vành đai bụi và
thiên thạch. Các mảnh nhỏ va chạm vào nhau, chồng chất nhau kết thành những
mảnh lớn hơn... Những mảnh nằm cách tâm khoảng 150 triệu km sẽ tạo thành
Trái Đất. Khi Mặt Trời ngày càng cô đặc lại sẽ nóng lên đến mức đủ lớn sẽ kích
hoạt phản ứng tổng hợp nhiệt hạch và phát sáng như ngày nay.
2
Minh họa đĩa bồi tiền hành tinh đang hình thành quanh một hệ sao đôi.
Niên đại địa chất được sử dụng bởi các nhà địa chất để miêu tả thời gian
và quan hệ của các sự kiện đã diễn ra trong lịch sử Trái Đất. Khái niệm này
cũng có thể được dùng để miêu tả các sự kiện của vật thể khác trong vũ trụ ví
dụ như niên đại địa chất của Mặt Trăng; bài viết này chỉ tập trung vào niên đại
địa chất trên Trái Đất.
Các nhà địa chất cho rằng Trái Đất hình thành cách đây khoảng 4.570
triệu năm. Khoảng thời gian địa chất trong quá khứ của Trái Đất tạo thành thang
thời gian địa chất có các cấp tính từ cao xuống thấp là liên đại (eon), đại (era),
kỷ (period), thế (epoch), kỳ (age) và thời (chron) khác nhau, tương ứng với
thang phân vị địa tầng: liên giới, giới, hệ, thống, bậc và đới. Nhưng cần lưu ý
đây hà hai hệ thống khác nhau. Ví dụ một đại là khoảng thời gian liên tục nhất
định trong lịch sử Trái Đất, trong khi địa tầng tương ứng của đại đó (nghĩa là
giới) ở một khu vực nào đó thì là các lớp đá có niên đại thuộc đại này nhưng có
thể không liên tục, bị đứt đoạn hay mất tích.
3
Tóm tắt:
Niên đại địa chất:
Liên đại (Eon) Đại (Era) Kỷ (Period) Thế (Epoch) Thời gian
Liên đại Hỏa
Thành
(Hadean Eon)
Đại Cryptic (Cryptic Era) 4.56b - 4.50b
Đại các Nhóm Lòng chảo (Basin Groups Era) 4.50b - 3.95b
Đại Nectaris (Nectarian Era) 3.95b - 3.85b
Đại Imbrium Sớm (Early Imbrian Era) 3.85b - 3.80b
Liên đại Thái
Cổ
(Archean Eon)
Đại Tiền Thái Cổ (Eoarchean Era) 3.80b - 3.60b
Đại Cổ Thái Cổ (Paleoarchean Era) 3.60b - 3.20b
Đại Trung Thái Cổ (Mesoarchean Era) 3.20b - 2.80b
Đại Tân Thái Cổ (Neoarchean Era) 2.80b - 2.50b
Liên đại
Nguyên Sinh
Đại Cổ Nguyên
Sinh
Kỷ Thành Thiết (Siderian) 2.50b - 2.30b
Kỷ Tằng Xâm (Rhyacian) 2.30b - 2.05b
4
(Proterozoic
Eon)
(Paleoproterozoic
Era)
Kỷ Tạo Sơn (Orosirian) 2.05b - 1.80b
Kỷ Cố Kết (Statherian) 1.80b - 1.60b
Đại Trung Nguyên
Sinh
(Mesoproterozoic
Era)
Kỷ Cái Tằng (Calymmian) 1.60b - 1.40b
Kỷ Duyên Triển (Ectasian) 1.40b - 1.20b
Kỷ Hiệp Đái (Stenian) 1.20b - 1.00b
Đại Tân Nguyên
Sinh
(Neoproterozoic
Era)
Kỷ Lạp Thân (Tonian) 1.00b - 850m
Kỷ Thành Băng (Cryogenian) 850m - 635m
Kỷ Ediacara (Ediacaran) 635m - 542m
Liên đại Hiển
Sinh
(Phanerozoic
Eon)
Đại Cổ Sinh
(Paleozoic Era)
Kỷ Cambri (Cambrian) 542m - 490m
Kỷ Ordovic (Ordovician) 490m - 442m
Kỷ Silur (Silurian) 442m - 415m
Kỷ Devon (Devonian) 415m - 359m
Kỷ Than
đá (Carboniferous)
Thế Mississippi 359m - 318m
Thế
Pensyvania
318m - 299m
Kỷ Permi (Permian) 299m - 251m
Đại Trung Sinh
(Mesozoic Era)
Kỷ Tam Điệp (Triassic) 251m - 199m
Kỷ Jura (Jurassic) 199m - 145m
Kỷ Phấn Trắng (Cretaceous) 145m - 65m
Đại Tân Sinh
(Cenozoic Era)
Kỷ Đệ Tam hạ
(Paleogen)
Thế Paleocen 65m - 56m
Thế Eocen 56m - 34m
Thế Oligocen 34m - 23m
Kỷ Đệ Tam
thượng (Neogen)
Thế Miocen 23m - 5.33m
Thế Pliocen 5.33m - 1.80m
5
Kỷ Đệ
Tứ (Neogen)
Thế Pleistocen 1.80m -
10000y
Thế Holocen 10000y -
present
1. Liên đại Thái Viễn Cổ hay Hỏa Thành (Hadean): 3.800-4.500 triệu năm
trước.
Liên đại Hỏa Thành trải dài từ khi bắt đầu hình thành Trái Đất và kết thúc
vào khoảng 3.800 triệu năm trước, mặc dù niên đại của nó dao động rất mạnh
trong các nguồn tài liệu địa chất khác nhau. Tên gọi "Hadean" có nguồn gốc từ
Hades, nó gợi ra hình ảnh của âm phủ hoặc là ám chỉ tới các điều kiện trên Trái
Đất vào thời gian đó. Các văn bản cũ hơn đơn giản chỉ gọi liên đại này là Tiền-
Thái Cổ, trong khi trong phần lớn thời gian của thế kỷ 19 và 20 thì thuật ngữ
"Azoic" (tức vô sinh - nghĩa là không có hoặc trước sự sống) nói chung hay
được sử dụng. Cuộc oanh tạc lớn muộn đã diễn ra trong thời kỳ Hỏa Thành và
ảnh hưởng tới cả Trái Đất lẫn Mặt Trăng.
Những vụ phun trào núi lửa diễn ra thường xuyên trong buổi đầu lịch sử Trái đất.
Một lượng nước đáng kể có lẽ đã có mặt trong vật chất tạo ra Trái Đất.
Các phân tử nước có lẽ đã thoát khỏi lực hấp dẫn của Trái Đất cho đến khi bán
kính của Trái Đất đạt tới khoảng 40% kích thước ngày nay, và nước (cùng các
nguyên tố dễ bay hơi khác) có lẽ đã được giữ lại sau thời điểm này. Một phần
6
của hành tinh non trẻ này có lẽ đã bị phá vỡ bởi một va chạm để tạo nên Mặt
Trăng, nó có lẽ được gây ra bởi sự nóng chảy của của một hoặc hai khu vực lớn.
Các thành phần hiện nay không phù hợp với sự nóng chảy hoàn toàn, và va
chạm đó rất khó để có thể nung chảy hoàn toàn và trộn lẫn các khối đá khổng
lồ.
Nghiên cứu về Ziricon đã phát hiện ra rằng nước ở trạng thái lỏng lỏng có
thể đã tồn tại từ khoảng 4.400 Ma, rất sớm sau sự hình thành của Trái Đất. Điều
này chứng tỏ có sự hiện diện của khí quyển. Hydro và Hêli có lẽ vẫn tiếp tục bị
mất khỏi bầu khí quyển này, nhưng sự thiếu vắng các khí trơ nặng hơn trong khí
quyển ngày nay đã gợi ý rằng có lẽ đã có một điều gì đó mang tính thảm họa đã
xảy ra với bầu khí quyển ban đầu này. Tuy nhiên, một phần đáng kể các vật chất
có lẽ đã bị hóa hơi bởi va chạm này, tạo thành một bầu khí quyển dày đặc hơi
đá xung quanh hành tinh non trẻ.
Đá bốc hơi có lẽ đã ngưng tụ trong phạm vi khoảng 2.000 năm, để lại sau
lưng nó các chất dễ bay hơi còn nóng bỏng, tạo ra một bầu khí quyển dày CO2
cùng hydro và hơi nước. Các đại dương chứa nước lỏng có lẽ đã tồn tại mặc dù
nhiệt độ bề mặt ở mức khoảng 230 °C, dưới áp suất khí quyển rất lớn của CO2.
Khi quá trình nguội đi được tiếp diễn, các sự lún sụt của đất và sự hòa tan trong
nước biển đã loại bỏ phần lớn CO2 ra khỏi khí quyển nhưng nồng độ của nó dao
động một cách dữ dội do bề mặt mới và các chu trình tạo lớp vỏ Trái Đất đã
xuất hiện.
1.1 Đại Cryptic hay đại Bí ẩn: 4.100-4.500 triệu năm trước.
Đây là đại cổ nhất của liên đại Hỏa Thành , và nói chung được chấp nhận
là bắt đầu vào khoảng 4.567,17 triệu năm trước khi Trái Đất và Mặt Trăng hình
thành. Không tồn tại các mẫu vật có niên đại vào khoảng thời gian chuyển tiếp
từ đại Cryptic sang đại kế tiếp theo là đại Nhóm Lòng chảo của Mặt Trăng, mặc
dù đôi khi người ta cho rằng nó kết thúc vào khoảng 4.150 triệu năm trước đối
với một hoặc cả hai thiên thể này.
7
Minh họa đĩa bồi tiền hành tinh
Đại này là bí ẩn là do có rất ít chứng cứ địa chất còn tồn tại từ thời gian
này. Phần lớn các hình thái đất đá thời kỳ này có lẽ đã bị phá hủy trong thời kỳ
bắn phá ban đầu, hay bị phá hủy bởi các hiệu ứng của các kiến tạo địa tầng sau
này. Trong thời kỳ này, Trái Đất được bồi đắp để lớn dần lên, các phần bên
trong của nó phân hóa và bề mặt nóng chảy của nó bắt đầu đông đặc lại. Sự va
chạm (giả thuyết trong Thuyết va chạm khổng lồ) đã dẫn tới sự hình thành của
Mặt Trăng cũng diễn ra vào thời kỳ này. Các khoáng chất cổ nhất đã biết là của
thời kỳ này.
Về nguồn gốc của Mặt trăng, đa số bằng chứng tồn tại ủng hộ giả thuyết
"Sự va chạm dữ dội". Theo đó, Trái đất không phải là hành tinh duy nhất được
tạo thành ở khoảng cách 150 triệu km từ Mặt trời. Giả thuyết này cho rằng đã
tồn tại "một tập vật chất" ở khoảng cách 150 triệu km so với cả Trái đất và Mặt
trời. Hành tinh này được gọi là Theia, nó nhỏ hơn so với Trái đất, có cùng kích
thước và khối lượng như Sao Hoả.
Quỹ đạo của nó ban đầu là ổn định nhưng về sau khi Trái đất ngày càng
có khối lượng lớn hơn sau khi thu thập thêm vật chất ở xung quanh, thì quỹ đạo
của Theia trở nên bất ổn định. Theia đu đưa theo Trái đất cho tới khi cách nay
khoảng 4.533 tỷ năm, nó đã va chạm vào Trái đất.
Do tốc độ tương đối chậm và góc va chạm nhỏ không đủ để nó tiêu diệt
Trái đất, nhưng một phần đáng kể của lớp vỏ Trái đất đã bị bắn ra. Những phần
tử nặng từ Theia chìm sâu vào vỏ Trái đất, trong khi những phần còn lại và vật
chất phóng ra đã tập hợp lại thành một vật thể duy nhất trong không gian. Dưới
ảnh hưởng của trọng lực nó trở thành một vật thể có hình cầu: đó là Mặt trăng
ngày nay. Sự va chạm này đã làm thay đổi trục của Trái đất làm nó nghiêng đi
8
23,5°, trục quay nghiêng gây ra mùa trên Trái đất. Có thể nó cũng đã làm tốc độ
quay của Trái đất tăng thêm và khởi động những kiến tạo địa tầng.
Hình ảnh giả định về hành tinh Theia hình thành tại điểm L5 của Trái đất, sau đó bị mất ổn
định bởi trọng lực, lao vào Trái đất hình thành nên Mặt trăng.
1.2 Đại các nhóm Lòng chảo (Basin Groups): 3.920-4.100 triệu năm trước.
Việc tạo ra các đơn vị phân chia nhỏ của đại Nhóm Lòng chảo là việc xếp đặt
30 thung lũng va chạm Tiền Nectar thành 9 nhóm niên đại tương đối. Niên đại
tương đối của lòng chảo đầu tiên trong mỗi nhóm dựa trên mật độ của hố và các
quan hệ chồng chập, trong khi các lòng chảo khác được đưa vào dựa trên các
lớp đất đá yếu hơn. Nhóm lòng chảo 1 không có niên đại chính thức cho lớp đáy
của nó, và ranh giới giữa nhóm lòng chảo 9 và kỷ Nectaris được xác định bằng
sự hình thành của lòng chảo va chạm Nectaris.
9
Mặt sáng của Mặt trăng - các Basin
1.3 Đại kỷ Nectaris (Nectarian): Niên đại của lòng chảo Nectaris ở một mức
độ nào đó là gây bất đồng, với con số thường xuyên được trích dẫn đưa ra giá trị
3,92 tỷ năm (Ga), hay không thường xuyên được trích dẫn là 3,85 Ga. Tuy
nhiên, gần đây người ta cho rằng lòng chảo Nectaris trên thực tế có thể cổ hơn
nhiều và có lẽ đã được hình thành vào khoảng 4,1 Ga. Các nhóm lòng chảo
không được sử dụng như là các thời kỳ địa chất tại bất kỳ bản đồ địa chất Mặt
Trăng nào.
1.4 Đại kỷ Imbrium Sớm (Lower Imbrian): khoảng 3.800-3.850 triệu năm
trước, cùng niên đại với sự xuất hiện của biển Imbrium (biển Mưa) trên Mặt
Trăng. Nó gối lên khoảng thời gian kết thúc của sự kiện bắn phá mạnh muộn
của khu vực bên trong của hệ Mặt Trời. Các va chạm đã tạo ra lòng chảo biển
Imbrium diễn ra vào đầu kỷ. Các lòng chảo lớn khác thống lĩnh phía bên trái
của Mặt Trăng (chẳng hạn Crisium, Tranquilitatis, Serenitatis, Fecunditatis và
Procellarum) cũng đã được hình thành trong thời kỳ này. Các lòng chảo này
được nhồi đầy các loại đá bazan chủ yếu trong kỷ Imbrium Muộn tiếp theo.
Trước khi diễn ra kỷ Imbrium Sớm là giai đoạn thuộc kỷ Nectaris.
10
2. Liên đại Thái Cổ (Archean/Archaean/Archeozoic) hay Vô Sinh (Azoic):
Vào đầu thời kỳ Thái Cổ, nhiệt của Trái Đất gần như đã cao gấp 3 lần so
với ngày nay, và vào khoảng cỡ 2 lần cao hơn so với mức bức xạ nhiệt ở đầu
liên đại Nguyên Sinh. Lượng nhiệt dư thừa này có thể là tàn dư từ sự lớn dần
lên của hành tinh, một phần là nhiệt của sự hình thành của phần lõi sắt, và rất có
thể một phần là do nhiệt sinh ra từ các hạt nhân có chu kỳ bán rã ngắn như
urani-235.
Phần lớn các loại đá thời Thái Cổ nếu tồn tại đều là các loại đá lửa biến
chất, phần lớn trong đó là đá xâm nhập. Hoạt động núi lửa là tương đối tích cực
hơn ngày nay, với hàng loạt các điểm nóng và thung lũng do rạn nứt, với sự
phun trào của các dung nham bất thường như komatiit. Các loại đá lửa xâm
nhập như các vỉa nóng chảy lớn và các khối đá sâu đồ sộ chứa granit, diorit, các
xâm nhập thành lớp dạng siêu mafic tới mafic, anorthosit và monzonit được biết
đến như là sanukitoid thống lĩnh trong suốt các tàn dư vùng im lìm kết tinh của
lớp vỏ Trái Đất thời Thái Cổ mà còn tồn tại tới ngày nay.
Trái Đất thời kỳ đầu Thái Cổ có thể có kiểu kiến tạo khác biệt. Một số
nhà khoa học cho rằng do Trái Đất là nóng hơn, và hoạt động kiến tạo địa tầng
là mãnh liệt hơn so với ngày nay, nên kết quả là có một tốc độ tái sinh các vật
liệu lớp vỏ lớn hơn. Điều này có thể ngăn cản quá trình tạo vùng im lìm và sự
hình thành của các châu lục cho tới khi lớp phủ nguội đi và sự đối lưu bị chậm
lại. Các nhà khoa học khác lại cho rằng lớp phủ thạch quyển tiểu lục địa là quá
nổi để có thể ẩn chìm và sự thiếu vắng của các loại đá thời Thái Cổ là do tác
động xói mòn của các sự kiện kiến tạo tiếp theo sau đó. Câu hỏi về có hay
không có hoạt động kiến tạo địa tầng nào đã tồn tại trong thời Thái Cổ là lĩnh
vực hoạt động tích cực của các nghiên cứu địa chất học hiện đại.
Không tồn tại các châu lục lớn cho tới tận cuối thời kỳ Thái Cổ; các tiền-
châu lục nhỏ là quy phạm chung, chúng bị ngăn chặn không cho kết hợp thành
các khối lớn hơn do tốc độ cao của hoạt động địa chất. Các tiền lục địa giàu
fenzit này có lẽ đã được tạo ra tại các điểm nóng hơn là tại các khu vực ẩn chìm,
từ các nguồn đa dạng như: sự phân hóa do lửa của các loại đá mafic để tạo
thành các loại đá trung gian và đá fenzit, macma mafic dễ nóng chảy hơn đá
fenzit và thúc đẩy quá trình granit hóa các loại đá trung gian, nóng chảy một
phần của đá mafic, cũng như từ sự thay đổi biến chất của đá fenzit trầm tích.
Các mảng lục địa như thế có thể không được bảo tồn nếu chúng không đủ nổi
hay đủ may mắn để tránh các đới ẩn chìm mạnh mẽ.
Một diễn giải khác cho sự thiếu vắng chung các loại đá thời kỳ đầu Thái
Cổ (trên 3.800 Ma) là khối lượng các mảnh vụn ngoài hệ Mặt Trời đã hiện diện
bên trong hệ Mặt Trời khi đó. Thậm chí ngay sau khi hình thành hành tinh thì
một lượng lớn các tiểu hành tinh và thiên thạch vẫn còn tồn tại, và chúng bắn
phá Trái Đất thời kỳ đầu cho tới khoảng 3.800 Ma. Sự bắn chặn cụ thể của các
11
vật thể va chạm lớn được biết đến như là sự bắn phá mạnh muộn cố thể đã ngăn
chặn bất kỳ mảng vỏ lớn nào không cho chúng hình thành bằng cách làm tan vỡ
các tiền lục địa ban đầu theo đúng nghĩa đen của cụm từ này.
Khí quyển thời Thái Cổ dường như không có ôxy tự do. Nhiệt độ dường
như đã ở gần mức như ngày nay trong khoảng 500 Ma của sự hình thành Trái
Đất, với nước ở dạng lỏng đã tồn tại, do sự tồn tại của các loại đá trầm tích
trong các loại đá gơnai bị biến dạng cao. Các nhà thiên văn học cho rằng Mặt
Trời khi đó đã tối hơn khoảng 33%, và điều này có thể đã góp phần hạ thấp
nhiệt độ tổng thể của Trái Đất hơn so với dự kiến. Đây là suy nghĩ để phản ánh
các lượng lớn hơn của các khí nhà kính so với các giai đoạn muộn hơn trong
lịch sử Trái Đất. Vào cuối thời kỳ Thái Cổ, khoảng 2.600 Ma, hoạt động kiến
tạo địa tầng có thể đã gần giống như ngày nay. Các lòng chảo trầm tích được
bảo tồn khá tốt và chứng cứ của các vòng cung núi lửa, các vết nứt nội châu lục,
các va chạm lục địa-lục địa và các sự kiến kiến tạo sơn trải rộng toàn cầu đã cho
thấy sự gắn kết và phá hủy của một và có lẽ là của vài siêu lục địa. Nước dạng
lỏng là phổ biến, và các lòng chảo đại dương sâu được biết là đã tồn tại do sự
hiện diện của các lớp thành hệ sắt dải, đá phiến silic, các trầm tích hóa học và
các lớp đệm bazan.
Sự sống có lẽ đã hiện diện trong suốt liên đại Thái Cổ, nhưng có lẽ chỉ
hạn chế trong các dạng sinh vật đơn bào không nhân, gọi là sinh vật nhân sơ
(Prokaryota hay trước đây làMonera); do không thấy có bất kỳ hóa thạch nào
của sinh vật nhân chuẩn (Eukaryota), mặc dù chúng có thể đã tiến hóa trong liên
đại này và đơn giản là không để lại hóa thạch. Tuy nhiên, không có chứng cứ
hóa thạch cũng tồn tại cho các sinh vật siêu nhỏ nội bào như các virus.
2.1 Đại Tiền Thái Cổ (Eo-archean): khoảng 3.600-3.800 triệu năm trước. Siêu
lục địa đầu tiên Vaalbara có lẽ đã xuất hiện trong thời kỳ này.
12
Cảnh quan của Đại tiền Thái cổ - núi lửa ở khắp nơi, bầu trời màu da cam (nhiều metan),
biển màu lục (nhiều sắt)
2.2 Đại Cổ Thái Cổ (Paleo-archean): khoảng 3.200-3.600 triệu năm trước.
Dạng sự sống cổ nhất đã biết, các hóa thạch vi khuẩn được bảo tồn khá tốt có
niên đại trên 3.460 Ma tại miền tây Australia là thuộc về đại này.
2.3 Đại Trung Thái Cổ (Meso-archean): khoảng 2.800-3.200 triệu năm trước.
Các hóa thạch từ Australia chỉ ra rằng các tấm đệm vi khuẩn lam dưới dạng
stromatolit đã sống trên Trái Đất kể từ thời kỳ thuộc đại Trung Thái Cổ này.
Siêu lục địa Ur có lẽ đã hình thành trong giai đoạn này.
13
Thành tạo dải sắt, Australia.
2.4 Đại Tân Thái Cổ (Neo-archean): khoảng 2.500-2.800 triệu năm trước. Sự
quang hợp giải phóng ôxy lần đầu tiên đã xuất hiện trong giai đoạn này (khoảng
2.700 Ma) và nó là nguyên nhân của thảm họa ôxy xảy ra sau này trong đại Cổ
Nguyên Sinh (khoảng 2.400 Ma) do sự tích tụ gây ngộ độc của ôxy trong khí
quyển Trái Đất, được các sinh vật quang tự dưỡng, đã tiến hóa trong đại này,
giải phóng ra.
3. Liên đại Nguyên Sinh hay Nguyên Cổ (Proterozoic): khoảng 540-2.500
triệu năm trước.
Đây là một thời kỳ có các thay đổi lớn về địa chất của Trái Đất. Mảng
kiến tạo cuối cùng đã hình thành trong thời kỳ này. Các bằng chứng đầu tiên
của sự sống đa bào và sinh sản hữu tính từ khoảng 1,2 tỷ năm trước, ở giữa liên
đại Nguyên Sinh. Trái đất nguội đi nhanh chóng, và trong thời gian cuối liên đại
đã hoàn toàn đóng băng. Sự sống đa bào phức tạp lần đầu tiên xuất hiện.
14
Liên đại Nguyên Sinh bao gồm ba đại địa chất, từ cổ nhất tới trẻ nhất là:
- Đại Cổ Nguyên Sinh (Paleoproterozoic)
- Đại Trung Nguyên Sinh (Mesoproterozoic)
- Đại Tân Nguyên Sinh (Neoproterozoic)
Các sự kiện chính đã được xác định khá tốt là:
- Sự quá độ sang khí quyển giàu ôxy trong đại Trung Nguyên Sinh.
- Một vài thời kỳ băng hà hóa, bao gồm cả quả cầu tuyết Trái Đất trong
kỷ Cryogen ở cuối đại Tân Nguyên Sinh.
- Kỷ Ediacara (635 tới 542 Ma) được đặc trưng bằng sự tiến hóa của các
sinh vật đa bào thân mềm khá phổ biến.
15
Đá trầm tích liên đại Nguyên Sinh hạ từ Bolivia, Nam Mỹ
Một trong những sự kiện quan trọng nhất của liên đại Nguyên Sinh là sự
tích lũy ôxy trong khí quyển Trái Đất. Mặc dù sự giải phóng ôxy do quang hợp
từ thời kỳ Thái Cổ là điều không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng trong thời kỳ đó
sự tích tụ ôxy chưa đủ lớn cho đến khi quá trình chìm lắng hóa học của các chất
như lưu huỳnh và sắt không bị ôxi hóa đã được thực hiện xong. Vào khoảng 2,3
tỷ năm trước, ôxy trong khí quyển có lẽ chỉ đạt được mức khoảng 1-2% của
mức như ngày nay. Các tạo thành sắt theo dải, cung cấp phần lớn các quặng sắt
trên thế giới, cũng là lắng đọng hóa học đáng chú ý. Phần lớn các tích tụ đã
giảm mạnh sau 1.900 Ma, hoặc là do sự gia tăng của ôxy hoặc là thông qua sự
phối trộn của các cột nước đại dương.
Các địa tầng màu đỏ do hematit, một chỉ báo cho thấy sự gia tăng của ôxy
trong khí quyển 2 tỷ năm trước; chúng không được tìm thấy trong các tầng đá
cổ hơn. Sự tích tụ ôxy có lẽ là do 2 yếu tố: sự nhồi đầy của các chất chìm lắng
hóa học và sự gia tăng của sự chôn vùi cacbon, nó cô lập các hợp chất hữu cơ
mà nếu không thì chúng rất dễ dàng bị ôxi hóa bởi ôxy trong khí quyển.
16
Các lớp vỏ đá rắn của Trái Đất (thạch quyển) nằm trên một vùng đá nóng bán chảy có độ
nhớt cao (quyển mềm), trong đó các dòng phát sinh nhiệt được mô tả như hình trên.
Tại điểm nơi hai dòng đối lưu gặp nhau, thạch quyển bị tách ra, tạo thành các đại
dương. Dung nham phun trào ở khu vực này sẽ tạo ra đáy đại dương mới (thể hiện bằng màu
nâu sẫm). Sự tác động lên thạch quyển theo cách này gây ra áp lực lớn bên trên làm một
số khu vực chìm