Trong suốt lịch sử của loài người, việc phát minh ra ngôn
ngữ là cuộc cách mạng truyền thông lớn nhất đầu tiên.
Sau đó ít lâu con người phát sinh ra tín hiệu bằng lửa có
khả nǎng truyền đạt các thông tin có hiệu quả và nhanh
chóng tới các vùng xa. Câu truyện lịch sử cho thấy vào
khoảng nǎm 1000 trước công nguyên, các đội quân Hy
Lạp sử dụng phương pháp này để thông báo các chiến
thắng của họ cho các công dân đang nóng lòng của Hy
Lạp.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1826 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lịch sử phát triển công nghệ viễn thông điện tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2: Lịch sử phát triển công nghệ viễn thông
điện tử
Trong suốt lịch sử của loài người, việc phát minh ra ngôn
ngữ là cuộc cách mạng truyền thông lớn nhất đầu tiên.
Sau đó ít lâu con người phát sinh ra tín hiệu bằng lửa có
khả nǎng truyền đạt các thông tin có hiệu quả và nhanh
chóng tới các vùng xa. Câu truyện lịch sử cho thấy vào
khoảng nǎm 1000 trước công nguyên, các đội quân Hy
Lạp sử dụng phương pháp này để thông báo các chiến
thắng của họ cho các công dân đang nóng lòng của Hy
Lạp. Trong một thời gian dài, phương pháp này đã được
sử dụng một cách rộng rãi để đáp ứng các nhu cầu về
truyền thông. Một cuộc cách mạng thông tin khác nữa
lớn hơn đã xảy ta khi con người biết được làm thế nào
để ghi lại ý nghĩ và tư tưởng của mình bằng cách dìng
cách dùng các chữ viết. Với khả nǎng này, con người có
khả nǎng truyền thông tin mà không bị giới hạn bởi thời
gian và không gian. Đồng thời, việc phát minh này đã
đưa ta các dịch vụ đưa thư và thông báo. Hoàng đế Rô-
ma đã có thể truyền đi thông tin cần thiết đến các vùng
xa đến 160 km cách xa thành Rôm trong một ngày
bằnghệ thống (mạng lưới) đường bộ họ đã xây dựng nên
trong toàn quốc. Việc phát minh ta công nghệ in đã thúc
đẩy hơn nữa việc phát triển các phương tiện truyền tin và
cho con người có khả nǎng thông tin với nhiều người
hơn và với các khu vực ở cách xa nhau.
Từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, công nghệ phát thanh và
truyền thông bằng điện đã được phát triển và bắt đầu
được dùng rộng khắp. Đài phát thanh và truyền hình
được phát minh và thời gian này đã làm thay đổi thế giới
chúng ta rất nhiều. Trong phần tiếp theo, các phát minh
lớn khác và những phát hiện liên quan đến công nghệ
thông tin điện tử đã xảy ra trong suốt 160 nǎm qua cũng
như xu hướng phát triển của chúng ở tương lai đã được
thảo luận một cách ngắn gọn. Nǎm 1820, Georgo Ohm
đã đưa ta công thức phương trình toán học để giải thích
các tín hiệu điện chạy qua một dây dẫn rất thành công.
Và nǎm 1830, Michall Faraday đã tìm ta định luật dẫn
điện từ trường. Nǎm 1850, đại số Boolean của George
Boolers đã tạo ta nền móng cho lôgíc học và phát triển
các rơ-le điện. Chính vào khoảng thời gian này khi các
đường cáp đầu tiên xuyên qua Đại Tây Dương để đánh
điện tín được lắp đặt. James Clerk Maxwell đã đưa ra
học thuyết điện từ trường bằng các công thức toán học
nǎm 1870. Cǎn cứ vào học thuyết này, Henrich Hertz đã
truyền đi và nhận được sóng vô tuyến thành công bằng
cách dùng điện trường lần đầu tiên trong lịch sử. Tổng
đài điện thoại đầu tiên được thiết lập đầu tiên nǎm 1876
ngay sau khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện
thoại. 5 nǎm sau, Bell bắt đầu dịch vụ gọi điện thoại
đường dài giữa New York và Chicago và Guglieno
Mareconi của Italia đã lắp đặt một trạm phát sóng vô
tuyến để phát các tín hiện điện tín. Trong thế kỷ 21 việc
phát triển và áp dụng có tính thực tế về công nghệ liên
quan đang tiếp tục phát triển nhanh chóng và trong quá
trình đó, cách mạng hoá thế giới chúng ta. Nǎm 1900,
Einstein, một nhà vật lý nổi tiếng về học thuyết tương đối,
đã viết rất nhiều tài liệu quan trọng về vật lý chất rắn,
thồng kê học, điện từ trường, và cơ học lượng tử. Vào
khoảng thời gian này phòng thí nghiệm Bell của Mỹ đã
phát minh và sáng chế ra ống phóng điện cực cho các
kính thiên vǎn xoay được và Le de Forest trở thành
người khởi xướng trong lĩnh vực vi mạch điện tử thông
qua phát minh của ông ta về một ống chân không ba cực.
Việc này được tiếp theo bằng phát minh một hệ thống
tổng đài tương tự tự động có khả nǎng hoạt động không
cần có bảng chuyển mạch. Nǎm 1910, Erwin Schrodinger
đã thiết lập nền tảng cho cơ học lượng tử thông qua
công bố của ông ta về cân bằng sóng để giải thích cấu
tạo nguyên tử và các đặc điểm của nguyên tử và R.H
Goddard đã chế tạo thành công tên lửa bay bằng phản
lực chất lỏng, và máy tê-lê-típ đã được phát minh. Đồng
thời, vào khoảng thời gian này, phát thanh công cộng
được bắt đầu bằng cách phát sóng. Nǎm 1920, Ha rold
S. Black của phòng thí nghiệm nghiên cứu Bell đã phát
minh ra một máy khuếch đại phản hồi âm bản mà ngày
nay vẫn còn dùng trong lĩnh vực viễn thông và công nghệ
máy điện toán. V.K. Zworykin của RCA, Mỹ đã phát minh
ra đèn hình bằng điện cho vô tuyến truyền hình, và các
cáp đồng trục, phương tiện truyền dẫn có hiệu quả hơn
các loại dây đồng bình thường, đã được sản xuất. Nǎm
1939, dịch vụ phát sóng truyền hình thường xuyên được
bắt đầu lần đầu tiên trong lịch sử và nǎm 1930, Claude
Schannon của phòng thí nghiệm Bell, bằng cách sử dụng
các công thức toán học tiên tiến đã thành công trong việc
đặt ra học thuyết thông tin dùng để xác định lượng thông
tin tối đa mà một hệ thống viễn thông có thể xử lý vào
một thời điểm đã định. Học thuyết này đã được phát triển
thành học thuyết truyền thông số. Đồng thời, ra-đa đã
được phát minh trong thời kỳ này. Nǎm 1940, phòng thí
nghiệm Bell đã đặt nền móng cho các chất bán dẫn có độ
tích hợp cao ngày nay qua việc phát minh ra đèn ba cực
và Howard Aiken của đại học Harvrd, cùng cộng tác với
IBM, đã thành công trong việc lắp đặt một máy điện đầu
tiên có kích thước là 50feet và 8feet. Sau đó ít lâu, J.
Presper Ecker và John W. Mauchly của đại học
Pennsylvania lần đầu tiên đã phát triển máy điện toán
phân tách gọi là ENIAC. Von Neuman dựa vào máy này,
đã phát triển thành công sau đó máy điện toán có lưu giữ
chương trình. PCBs được đưa ra vào những nǎm 50, đã
làm cho việc tích hợp các mạch điện tử có thể thực hiện
được. Cùng trong nǎm đó, RCA đã phóng thành công vệ
tinh nhân tạo vào không trung và la-re dùng cho truyền
thông quang học đã được phát minh. Vào những nǎm 60,
các loại LSIs, các máy điện toán mini có bộ nhớ kiểu
bong bóng, cáp quang, và máy phân chia thời gian được
phát triển và thương mại hoá một cách thành công vào
các nǎm 70, các loại CATVs hai hướng, đĩa Video, máy
điện toán đồ hoạ, truyền ảnh qua vệ tinh, và các hệ thống
tổng đài điện tử hoá toàn bộ được đưa ra.
2. Công nghệ chuyển mạch
2.1 Khái quát chung
2.1.1 Nhu cầu đối với hệ thống chuyển mạch
Máy điện tín được Samuel F.B Morse phát minh nǎm
1837, lần đầu tiên trong lịch sử, các tín hiệu điện đã
được sử dụng để truyền tin; các số liệu được mã hoá
được dùng như một phương tiện truyền dẫn. Việc truyền
tiếng nói trở thành có thể thực hiện được khi Alexander
Graham Bell phát minh ra điện thoại nǎm 1876. Nói
chung, việc truyền thông tin đề cập đến quá trình chuyển
thông tin từ người phát thông tin đến người sử dụng.
Thông tin được xác định là các tư tưởng và các số liệu
cần thiết cho người sử dụng. Đồng thời, một số phương
tiện truyền tin đã được sử dụng trong suốt lịch sử loài
người. Loại tín hiệu lửa đã được dùng rộng khắp trong
quá khứ là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, vì nhu cầu về
các dịch vụ truyền thông chất lượng cao và đáng tin cậy
càng tǎng lên, con người bắt đầu dùng điện thay cho lửa
để làm phương tiện truyền thông quan trọng nhất. Trong
tương lai gần, người ta dự định là ánh sáng sẽ thay thế
điện để làm phương tiện chính. Hệ thống truyền thông đề
cập đến một số thiết bị hay các bộ phận sử dụng để cho
phép người cấp tin chuyển thông tin cho người sử dụng;
các bộ phận này hay thiết bị được phân loại thành các hệ
thống truyền tin phân tán và hệ thống truyền thông tổng
đài như ghi ở Hình 2.1. Trong trường hợp đầu, người cấp
tin chỉ cấp thông tin trong đó người sử dụng chỉ nhận
được thông tin truyền đi. Một trong các ví dụ rõ ràng cho
các loại này bao gồm có đài phát thanh và vô tuyến
truyền hình.
Hệ truyền thông
Hệ truyền thông phân
tán
Đài và vô tuyến, truyền
hình v.v.
Hệ truyền thông tổng
đài
Mạng lưới truyền thông
điện thoại v.v.
Hình 2.1. Phân loại các hệ thống truyền thống.
Trong hệ truyền thông tổng đài, người cấp thông tin và
dùng thông tin chưa được xác định và hệ thống sử dụng
có khả nǎng cung cấp và sử dụng thông tin vào cùng một
thời gian. Ví dụ cho việc này là hệ thống truyền thông
điện thoại. Hệ truyền thông tổng đài đề cập đến quá trình
chọn lựa chọn những người đang ở cách xa nhau hoặc
giữa các máy đặt cách biệt nhau và sau đó giao tiếp với
nhau bằng tiếng nói hoặc bằng các số liệu. Để phân tích
một cách có hiệu quả, thì các điều kiện sau đây phải
được đáp ứng.
Trước hết, chọn một bên nhận thông tin và sau đó chọn
đường giao tiếp, một hệ tổng đài được dùng cho mục
đích này. Các loại hệ tổng đài hiện có thể có để truyền tin
bao gồm các hệ tổng đài điện tử chủ yếu dùng cho các
dịch vụ điện thoại và các hệ chuyển mạch số liệu dùng
để truyền số liệu.
Thứ hai, các hệ truyền dẫn được dùng để truyền thông
tin ở các mức chất lượng có thể chấp nhận được không
kể đến khoảng cách cần phải được đảm bảo. Hiện vay
các hệ thống truyền dẫn bằng dây như các loại cáp cân
bằng, cáp đồng trục, sợi quang và các hệ thống truyền
dẫn không dây (vô tuyến) sử dụng các sóng cực ngắn
đang được dùng rộng rãi.
Thứ ba, các mạng lưới truyền tin phải được thiết lập có
xem xét đến việc bố trí hệ tổng đài và đường truyền dẫn,
chất lượng giao diện tổng thể, và duy trì chất lượng
truyền dẫn, ngoài ra, mạng lưới tuyến được lập ra, phân
phối sự mất đường truyền, kế hoạch đánh số, các vấn đề
liên quan đến tính cước phải được thiết kế theo nhu cầu
của người sử dụng. Các hệ thống truyền thông tổng đài
đã tiếp tục được nâng cấp một cách nhanh chóng kể từ
khi phát minh ra hệ thống điện thoại cách đây gần 100
nǎm. Về cơ bản, tất cả các hệ thống đó đều cần máy
điện thoại để chuyển các tín hiệu tiếng nói thành tín hiệu
điện và ngược lại cũng như các hệ truyền dẫn để truyền
các tín hiệu điện. Một mạng lưới truyền tin có thể được
xây dựng bằng cách nối trực tiếp các thuê bao cung cấp
và nhận thông tin qua mạng lưới khi số lượng thuê bao
này chưa phải nhiều quá. Ví dụ, được minh hoạ ở (a) của
hình 2.2, 8C2=28 đường là cần thiết trong trường hợp ở
đó chỉ có 8 thuê bao được đǎng ký trong hệ thống. Tuy
nhiên, khi sử dụng hệ tổng đài với chức nǎng giao tiếp
giữa các thuê bao như trình bày ở (b) hình 2.2 số các
đường điện thoại cần thiết phải bằng với số thuê bao đã
đǎng ký trong hệ thống. Như đã trình bày, điều quan
trọng thiết lập các mạng lưới thông tin một cách kinh tế
và có hiệu quả.
Hình 2.2. Các phương pháp của mạng chuyển mạch cho
8 thuê bao