Lịch sử phong trào Nông dân và Hội nông dân tỉnh Đăk Nông, giai đoạn 1930 - 2013

Là một tỉnh có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng, là “phên dậu” của Tổ quốc, qua dòng chảy của lịch sử dân tộc, nông dân của các đồng bào dân tộc trên vùng đất Đăk Nông vừa giàu lòng yêu nước, cần cù thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất; không chỉ có vai trò to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trải qua những thăng trầm, thử thách của lịch sử, nông dân trên vùng đất Đăk Nông đã viết nên những trang anh hùng ca bất tử trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Từ phong trào yêu nước trước khi có Đảng, như anh hùng dân tộc N’TrangLơng, đến những cơ sở cách mạng chở che cho các chiến sĩ cộng sản vượt ngục Đăk Mil trong chống Pháp và hàng ngàn nông dân xây dựng tuyến hành lang chiến lược nối liền đường dây liên lạc giữa các tỉnh Tây Nguyên với Miền Đông Nam Bộ để góp phần quan trọng trong thắng lợi mùa Xuân năm 1975. Tinh thần bất khuất, kiên cường ấy, được nông dân các đồng bào dân tộc tiếp nối trong các phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng quê hương trong công cuộc đổi mới đất nước. Đó cũng chính là thành quả của quá trình lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã khơi dậy được phong trào rộng lớn của nông dân trên vùng đất này, khẳng định trong thực tế ngay từ khi Đảng ra đời, đã thể hiện là tổ chức tiên phong không chỉ của công nhân mà của toàn thể nhân dân lao động - trong đó đa số là nông dân.

doc216 trang | Chia sẻ: thuychi16 | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử phong trào Nông dân và Hội nông dân tỉnh Đăk Nông, giai đoạn 1930 - 2013, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Là một tỉnh có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng, là “phên dậu” của Tổ quốc, qua dòng chảy của lịch sử dân tộc, nông dân của các đồng bào dân tộc trên vùng đất Đăk Nông vừa giàu lòng yêu nước, cần cù thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất; không chỉ có vai trò to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trải qua những thăng trầm, thử thách của lịch sử, nông dân trên vùng đất Đăk Nông đã viết nên những trang anh hùng ca bất tử trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Từ phong trào yêu nước trước khi có Đảng, như anh hùng dân tộc N’TrangLơng, đến những cơ sở cách mạng chở che cho các chiến sĩ cộng sản vượt ngục Đăk Mil trong chống Pháp và hàng ngàn nông dân xây dựng tuyến hành lang chiến lược nối liền đường dây liên lạc giữa các tỉnh Tây Nguyên với Miền Đông Nam Bộđể góp phần quan trọng trong thắng lợi mùa Xuân năm 1975. Tinh thần bất khuất, kiên cường ấy, được nông dân các đồng bào dân tộc tiếp nối trong các phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng quê hương trong công cuộc đổi mới đất nước. Đó cũng chính là thành quả của quá trình lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã khơi dậy được phong trào rộng lớn của nông dân trên vùng đất này, khẳng định trong thực tế ngay từ khi Đảng ra đời, đã thể hiện là tổ chức tiên phong không chỉ của công nhân mà của toàn thể nhân dân lao động - trong đó đa số là nông dân. Nguyện vọng của cán bộ, hội viên, nông dân các dân tộc tỉnh Đăk Nông mong muốn được ghi lại những trang sử hào hùng của cha ông, khẳng định công lao, sự đóng góp đồng thời để tôn vinh, tri ân đối với các thế hệ nông dân đã phấn đấu, hy sinh để xây dựng và bảo vệ vùng đất Đăk Nông có được vị thế như hiện nay. Đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống cần cù sáng tạo, bất khuất kiên cường của nông dân các đồng bào dân tộc trên vùng đất này, từ đó động viên, khích lệ đồng bào các dân tộc, đặc biệt là thế hệ trẻ, phát huy tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức để xứng đáng với các thế hệ ông, cha đã bảo vệ và xây dựng vùng đất quê hương trung kiên, anh dũng này. Với tất cả ý nghĩa ấy, Tỉnh ủy Đăk Nông đồng ý chủ trương và chỉ đạo Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh Đăk Nông thực hiện công tác nghiên cứu sưu tầm, biên soạn cuốn "Lịch sử phong trào Nông dân và Hội nông dân tỉnh Đăk Nông, giai đoạn 1930 - 2013". Bố cục cuốn sách: Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, cuốn sách được chia làm 8 chương với ba phần lớn : Phần thứ nhất: Đặc điểm, truyền thống phong trào nông dân trên vùng đất Đắk Nông trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống ngoại xâm. Phần thứ hai: Nông dân vùng đất Đắk Nông trong quá trình cùng cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và từng bước tiến hành đổi mới (1975-2003) Phần thứ ba: Tỉnh Đắk Nông được thành lập, Hội Nông dân tỉnh ra đời – quá trình xây dựng và trưởng thành (2004-2014) Cuốn sách đã phản ánh chân thực về quá trình hình thành và phát triển của phong trào nông dân từ khi chưa có Đảng gắn với sự hình thành và phát triển của tổ chức Hội Nông dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Đức và tỉnh Đăk Lăk (cũ) trước đây và tỉnh mới Đăk Nông ngày nay trong dòng chảy lịch sử của đất nước. Đây là tài liệu quý báu, phục vụ cho công tác nghiên cứu, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, trong hệ thống tổ chức Hội và phong trào nông dân các dân tộc trong tỉnh. Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau, xóa đói - giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, giữ vững an ninh quốc phòng trên dải đất biên cương phía nam của Tổ quốc. Đây cũng là một bước quan trọng trong công tác tổng kết thực tiễn sinh động của tổ chức Hội và phong trào nông dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông trong một giai đoạn cách mạng nhất định, góp phần cùng các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách phát hiện quy luật của sự vận động và phát triển trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh Đăk Nông nói riêng và Tây Nguyên nói chung. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, nhưng do nghiên cứu trên địa bàn có nhiều sự thay đổi về địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt khó khăn trong việc khai thác tài liệu lưu trữ và gặp gỡ các nhân chứng lịch sử, do vậy, cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Ban Biên soạn mong muốn nhận được những đóng góp quý giá của các độc giả, các nhà khoa học và nhân dân các dân tộc trong và ngoài tỉnh, để tái bản lần sau cuốn sách được hoàn chỉnh hơn. Ban Biên soạn Phần thứ nhất ĐẶC ĐIỂM, TRUYỀN THỐNG PHONG TRÀO NÔNG DÂN TRÊN VÙNG ĐẤT ĐẮK NÔNG TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM Chương 1 ĐẶC ĐIỂM, TRUYỀN THỐNG VÀ CON NGƯỜI VÙNG ĐẤT ĐẮK NÔNG 1.1. Quá trình hình thành và phát triển vùng đất, con người Đắk Nông Vùng đất Đắk Nông – quá trình hình thành và phát triển Đến những năm cuối thế kỷ XIX, vùng đất Đắk Nông vẫn là nơi xa xôi, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào dân tộc người thiểu số bản địa, sống theo cộng đồng, thị tộc, bộ lạc, trải trên một địa bàn rộng lớn. Tuy vậy, ngay từ lúc đó, Đắk Nông đã được xác định là vùng đất giàu tiềm năng phát triển kinh tế và có vị trí chiến lược về quân sự đối với cả khu vực. Do có vị trí quan trọng về nhiều mặt, Đắk Nông đã sớm trở thành mục tiêu mà thực dân Pháp đặc biệt chú ý. Những người Pháp đầu tiên đặt chân lên vùng đất Đắk Nông là những tên gián điệp khoác áo giáo sĩ như Ta be, Phông ten hoặc là những tên gián điệp được ngụy trang dưới danh nghĩa nhà nghiên cứu như HăngriMét. Trong quá trình thị sát Đông Dương, các giáo sĩ phương Tây đã tổ chức khảo cứu, vẽ bản đồ thổ nhưỡng và dân cư tại địa phương nhằm phục vụ cho việc truyền giáo, chinh phục và khai thác của thực dân Pháp. Sau khi xâm lược Việt Nam, Pháp nhanh chóng đưa quân đến vùng Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng, thiết lập bộ máy cai trị của chính quyền thực dân. Pháp thành lập một số đồn điền ở vùng này để nghiên cứu và kiểm  soát dân chúng, tập trung ở Đắk Mil, Đắk Song. Sau khi Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết (21-7-1954), đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện âm mưu thôn tính miền Nam Việt Nam. Xuất phát từ vị trí chiến lược của Đắk Nông, nơi tiếp giáp giữa ba vùng: Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đông Bắc Campuchia, trong những năm đầu của quá trình xâm lược, Mỹ-Diệm đã tổ chức chiếm đóng, phân tuyến phòng thủ, thực hiện chính sách đưa dân từ vùng đồng bằng lên Đắk Nông lập nghiệp, từng bước xây dựng, củng cố mọi mặt để hình thành một đơn vị hành chính mới, nhằm thiết lập vành đai ngăn chặn ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở Tây Nguyên đối với vùng Đông Nam Bộ và Sài Gòn; đồng thời, làm cơ sở khai thác tiềm năng kinh tế của Tây Nguyên, phục vụ âm mưu xâm chiếm lâu dài của chúng ở miền Nam Việt Nam. Với mưu đồ đó, ngày 23-1-1959, chính quyền Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 24-NV thành lập tỉnh Quảng Đức Theo quyết định của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, chiếu Sắc lệnh số 4-TTP ngày 29-10-1955 và các văn kiện kế tiếp ấn định thành phần Chính phủ, chiếu Sắc lệnh số 4-aTTP ngày 23-10-1956 về đổi danh hiệu các phần, chiếu dụ số 57a ngày 24-10-1956 cải tổ nền hành chính Việt Nam, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 24-NV ngày 23-01-1959 thành lập tại cao nguyên trung phần 1 tỉnh mới đặt tên là Quảng Đức. . Theo Sắc lệnh này, tỉnh Quảng Đức hình thành trên cơ sở cắt một phần tổng Đăk Đam, một phần tổng Đăk Mâm và toàn bộ tổng Đắk Mil nguyên thuộc quận Đăk Song của tỉnh Đắk Lắk và một phần tổng Nam Ka nguyên thuộc quận Lắk tỉnh Đắk Lắk từ phía Nam cầu 14 vào đến Đắk Song gọi là quận Đức Lập; cắt tổng Đắk Bút So, tổng Đắk Rtih, nguyên thuộc quận Đắk Song tỉnh Đắk Lắk và hai xã Bu Prăng, Du Diên Vir nguyên thuộc quận Phước Hòa tỉnh Phước Long thành lập quận Kiến Đức; lấy tổng Đắk N’Drung, nguyên thuộc quận Đắk Song tỉnh Đắk Lắk và xã Bích Khê nguyên thuộc quận Di Linh, tỉnh Lâm Đồng gồm cả Kiến Đức thành lập quận Khiêm Đức. Tỉnh lỵ Quảng Đức đặt tại thị xã Gia Nghĩa. Dân số Quảng Đức lúc bấy giờ khoảng 37.000 người, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là người M’Nông. Đối với ta, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phạm vi hành chính của tỉnh Quảng Đức cũng được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược và điều kiện chiến tranh. Tháng 12 năm 1960, Trung ương quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V chỉ đạo, dựa trên sự phân chia địa giới hành chính của chính quyền Ngô Đình Diệm (lấy mật danh là B4); đồng thời, chỉ định đồng chí Vũ Anh Ba (tức Hồng Ưng) làm Bí thư Ban Cán sự tỉnh để lãnh đạo phong trào cách mạng. Mặt khác, do yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng trong từng thời kỳ lịch sử, nên tỉnh Quảng Đức (cũ) có sự chia tách nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế. Đến giữa năm 1961, khu VI được thành lập, tỉnh Quảng Đức thuộc về sự chỉ đạo của khu VI. Đến cuối năm 1961, khi Khu X được thành lập, tỉnh Quảng Đức lại chuyển từ khu VI về trực thuộc Khu X. Thời kỳ này địch mở những cuộc càn quét lớn vào vùng căn cứ để bắt lính, chúng dồn dân, lập ấp chiến lược, thọc sâu vào đánh phá căn cứ và bao vây, phong toả kinh tế của ta. Xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu của cách mạng, đầu năm 1962, tỉnh Quảng Đức giải thể; cắt huyện Khiêm Đức về tỉnh Lâm Đồng, thành lập Ban Cán sự B7; huyện Đức Lập và Đức Xuyên nhập về Đắk Lắk; huyện Kiến Đức nhập về Phước Long. Tháng 10-1962, cắt huyện Khiêm Đức và xã Đãng Gia của huyện Đức Trọng thành lập huyện mới, mang mật danh E25, các huyện khác được giữ nguyên như cũ. Trước điều kiện và tình hình mới của lịch sử, năm 1963, tỉnh Quảng Đức được tái lập. Huyện E25 giải thể và trở lại mang tên Khiêm Đức như trước. Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, nhiệm vụ của ta là giữ vững căn cứ, phát triển thực lực cách mạng, chống càn quét, gom dân, lập ấp, đồng thời phá kìm, đưa dân từ ấp chiến lược về vùng căn cứ cách mạng. Lúc này lại có sự điều chỉnh, tỉnh Quảng Đức thuộc sự chỉ đạo của khu X. Tháng 10 - 1963, ta quyết định giải thể khu X, cũng đồng thời giải thể luôn tỉnh Quảng Đức. Huyện Đức Lập, Đức Xuyên về lại tỉnh Đắk Lắk, Khiêm Đức về Lâm Đồng, Kiến Đức lúc này là một huyện nhỏ vẫn tiếp tục đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Phước Long. Đến đầu năm 1965, tỉnh Quảng Đức được tái lập lần thứ hai, nhưng đến đầu năm 1966 lại giải thể một lần nữa và chia thành hai đơn vị là Tiền phương A và Tiền phương B. Tiền phương A gồm: Huyện Đức Lập và Đức Xuyên, do đồng chí Trần Phòng (Bảy Biên) làm Bí thư, đồng chí Phùng Đình Ấm (Ba Cung) làm Phó Bí thư. Tiền phương B gồm huyện Khiêm Đức, Kiến Đức và thị xã Gia Nghĩa, do đồng chí Nguyễn Xuân Khanh (Năm Khanh) làm Bí thư. Đầu tháng 01 - 1967, do nhiệm vụ chiến trường đặt ra, hai cơ quan Tiền phương A và B hợp nhất thành tỉnh Quảng Đức như cũ. Tháng 5 - 1971, để phù hợp với diễn biến phát triển của cách mạng, Trung ương quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức lần thứ tư; giao Khiêm Đức, Kiến Đức về Lâm Đồng dưới sự chỉ đạo của khu VI; Đức Xuyên, Đức Lập được chuyển về Đắk Lắk thuộc khu V chỉ đạo. Đến tháng 8 - 1974, tiếp tục giao Kiến Đức về Phước Long; còn Khiêm Đức, Gia Nghĩa vẫn thuộc Lâm Đồng. Sự chỉ đạo theo đơn vị mới này kéo dài cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tháng 5-1975, thi hành chủ trương của Trung ương, tỉnh Quảng Đức được tái thành lập và đến tháng 11-1975, tỉnh Quảng Đức sát nhập vào tỉnh Đắk Lắk. Từ ngày 01–01-2004, tỉnh Đắk Nông được thành lập theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội khóa XI, trên cơ sở tách 06 huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk (cũ), gồm: Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk Nông, Đắk R’Lấp và Krông Nô, với diện tích tự nhiên là 651.438 hécta, dân số 392.070 người với 31 dân tộc anh em sinh sống. Trung tâm tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Gia Nghĩa, huyện Đắk Nông (nay là thị xã Gia Nghĩa). Đến tháng 8-2005, thành lập huyện mới Đắk GLong (huyện Đắk Nông cũ tách ra thành lập thị xã Gia Nghĩa và huyện Đắk GLong); tháng 11-2006, thành lập huyện Tuy Đức (tách ra từ huyện Đắk R’Lấp). Tính đến ngày 31-12-2010, toàn tỉnh có 1 thị xã, 7 huyện, 71 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 5 phường, 5 thị trấn và 61 xã). Vị trí địa lý, địa hình và tài nguyên Tỉnh Đắk Nông hiện nay là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, thuộc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dăy Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11045’ đến 12050’ vĩ độ Bắc, 107013’đến 108010’ kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia. Nằm ở cửa ngõ Tây Nguyên, Đắk Nông có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Đông Nam bộ với các tỉnh Tây nguyên, cách Thành phố Hồ Chí Minh 250 km về phía Bắc và cách Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk Lăk) 120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng, Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) 120 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 160 km về phía Đông. Đắk Nông có 130 km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri, có 02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Per nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem Reap, v.v. của nước bạn Campuchia. Vị trí địa lý như trên là điều kiện thuận lợi để Đắk Nông có thể mở rộng giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là nguồn động lực để Đắk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội để trở thành trung tâm phát triển kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên.  Về địa hình, Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, độ cao trung bình khoảng 600 m đến 700m so với mặt nước biển, có nơi lên đến 1.982m (Tà Đùng). Nhìn tổng thể, địa hình Đắk Nông như hai mái của một ngôi nhà mà đường nóc là dăy núi Nam Nung, chạy dài từ Đông sang Tây, có độ cao trung bình khoảng 800m, có nơi cao đến hơn 1.500m. Địa hình có hướng thấp dần từ Đông sang Tây. Các huyện Đắk Song, Đắk Mil, Cư Jut, Krông Nô thuộc lưu vực sông Krông Nô, sông Srêpốk nên thấp dần từ Nam xuống Bắc. Các huyện Tuy Đức, Đắk R’lấp, Đăk Glong và thị xã Gia Nghĩa thuộc thượng nguồn lưu vực sông Đồng Nai nên thấp dần từ Bắc xuống Nam. Vì vậy, Đắk Nông có địa hình đa dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ, hiểm trở với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng. Địa hình thung lũng thấp, có độ dốc từ 0-30 chủ yếu phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình cao nguyên đất đỏ Bazan chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình 600 - 800m, độ dốc khoảng 5-100. Địa hình chia cắt mạnh và có độ dốc lớn > 150 phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện Đăk Glong, Đắk R'Lấp. Với diện tích trên 651.438 hécta đất tự nhiên, đất đai Đắk Nông khá phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40% trong tổng diện tích 651.561 ha và được phân bổ đều toàn tỉnh. Đất đỏ Bazan trên nền đá Bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ trên nền đá Bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông, suối. Về giá trị sử dụng, đất nông nghiệp có diện tích là 306.749 ha, chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên; đất lâm nghiệp có rừng diện tích là 279.510 ha, tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 42,9%;  đất phi nông nghiệp có diện tích 42.307 ha. Đất chưa sử dụng còn 21.327 ha, trong đó đất sông suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha. Với tài nguyên đất đai nêu trên, Đắk Nông rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, cao su, chè, tiêu, điều trên nền đất xám, đất đỏ Bazan; đồng thời phát triển một diện tích lớn cây hàng năm như lúa, ngô và các loại cây công nghiệp ngắn ngày khác trên đất đen bồi tụ, đất Gley và đất phù sa ven sông suối. Rừng tự nhiên ở Đắk Nông nằm trong vùng hội tụ của hai luồng thực vật với hai loại hình rừng: Rừng thường xanh phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa lớn, độ ẩm cao, tầng đất sâu như Krông Nô, Đắk Song, Đắk Glong, Tuy Đức. Rừng khộp phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa thấp, điều kiện khắc nghiệt, các vùng lập địa xấu như bắc Đắk Mil, Cư Jut. Rừng Đắk Nông có nhiều hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng, những khu rừng nguyên sinh có nhiều loại gỗ qúy và cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị khoa học. Trong rừng còn nhiều động vật qúy hiếm như voi, gấu, hổ v.v. được ghi trong sách đỏ của nước ta và sách đỏ thế giới; có nhiều loại dược liệu qúy là nguồn nguyên liệu dồi dào để chế thuốc chữa bệnh trong y học dân tộc.  Lượng mưa trung bình hàng năm của Đắk Nông là 2.513 mm, lượng mưa cao nhất là 3.000 mm, độ ẩm không khí trung bình 84%. Với địa hình chia cắt và lượng mưa lớn, nên mật độ sông suối của Đắk Nông khá dày và có nhiều ghềnh thác. Phía Bắc và phía Tây có sông Sêrêpốk (ranh giới tự nhiên với tỉnh Đắk Lắk), sông Prêktê và sông Prêk Clong đổ ra sông Mê Kông; phía Đông Nam có sông Đa Dâng (thượng nguồn sông Đồng Nai, ranh giới tự nhiên với tỉnh Lâm Đồng). Sông suối ở Đắk Nông không chỉ cung cấp nguồn nước ngọt phục vụ đời sống của nhân dân mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp của những người nông dân ở Đắk Nông. Mặt khác, sông suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ thống suối đầu nguồn của các sông Đồng Nai, Krông Nô, Sêrêpôk có thể xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn với tổng công suất khoảng 1500 MW như thuỷ điện Buôn Kuôp 280 MW, Đức Xuyên 92 MW, Buôn TuaSrah 85 MW, Đắk Tih 140 MW, Đồng Nai 3-180 MW, Đồng Nai 4 – 340MW, Đồng Nai 6&6A v.v. đang từng bước được đầu tư xây dựng.  Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 178 mỏ khoáng sản với 16 loại khoáng sản chủ yếu: bauxit, wolfram, antimoal, bazan bọt; bazan cột, bazan khối, cát xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch ngói, than bùn, opal, thiếc sa khoáng, kaolin, nước khoáng thiên nhiên, saphir. Trong đó, bauxite là nguồn khoáng sản có trữ lượng lớn, phân bố ở thị xã Gia Nghĩa, các huyện Đắk GLong, Đắk R'Lấp, Đắk Song, Tuy Đức, trữ lượng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lượng thăm dò 2,6 tỉ tấn, hàm lượng Al2O3 từ 35-40%. Ngoài ra còn có các tài nguyên khá phong phú là nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng như đất sét phân bố rải rác trên địa bàn một số huyện, có thể khai thác công nghiệp, sản xuất gạch, ngói phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kinh tế-xã hội cũng như xây dựng dân dụng cho khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh. Sét cao lanh làm gốm sứ cao cấp phân bố tập trung ở huyện Đắk Glong, thị xã Gia Nghĩa; puzơlan làm nguyên liệu cho xi măng, gạch ceramic; đá bazan bọt làm nguyên liệu sản xuất gạch ốp lát cách âm, cách nhiệt, sợi chịu nhiệt v.v.  Cũng với lợi thế nằm trên cao nguyên M’Nông mênh mông, là thượng nguồn của 02 dòng sông lớn là sông Sêrêpôk và sông Đồng Nai, Đắk Nông có nhiều thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Các thác nước đẹp, hùng vĩ, còn nguyên sơ nằm giữa rừng già như thác Trinh Nữ, thác Dray H'Linh, Dray Sáp, thác Gia Long, thác Dray Nur, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác Chuông, thác Diệu Thanh, thác Ngầm, thác Lưu Ly, thác Liêng Nung, thác Đắk Glun, thác Ba tầng, v.v. Những khu rừng nguyên sinh có thể xây dựng các khu du lịch sinh thái, giã ngoại, cưỡi ngựa, sắn bắn, cắm trại trong các khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung (25.000 ha), bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (28.000 ha). Những hồ nước mênh mông có thể xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng, đua thuyền như Hồ Tây, EaSnô, Đắk Rông, Đak Đier, ĐãkR’tih, Đồng Nai 3, 4. Các bon làng đồng bào dân M’Nông, Mạ, Ê đê là những vùng đất ẩn chứa nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể quý báu, trong đó nổi bật hơn cả là cồng chiêng và các bộ sử thi; với những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống như Lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội đâm trâu...là những tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa, dân tộc, nhân văn. Về dân cư, dân tộc, tôn giáo – tín ngưỡng  Th