Lịch sử triết học Phương Tây (dùng cho học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học)

T RIẾT HỌC - “CUỘC HÀNH T RÌNH HƯỚNG ĐẾN CHÂN LÝ” Giải thích tiêu đề: một cách hiểu về đặc trưng củ a tri thức triết học (phân biệt với tri thức khoa học chuyên biệt, cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên), do Hegel nêu ra. Mục này hiểu như khái luận về triết, bao gồm những nội dung dưới đây. 1. Triết học và đối tượng của triết học. Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII T r. CN tại Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ “Triết học”* xuất phát từ tiếng Hy Lạp philosophia (với sự kết hợp phileo) – yêu thích, yêu mến, và sophia – thông thái, có nghĩa là “ yêu thích sự thông thái”. Cách hiểu đó ứng với thuật ngữ “triết học” ( Hán – Việt). T heo nghĩa rộng thuật ngữ “triết học” (philosophia, philosophy, philosophie ) thể hiện: 1) khát vọng vươn đến tri thức, sự hiểu biết, thông thái, 2) “thế tục hóa” sự thông thái thần linh. Khi tự xem mình là “ người yêu thích sự thông thái “ (philosophos) Pythagoras (nửa sau thế kỷ thứ VI - đầu thế kỷ V T r.CN) đã nhấn mạnh ý nghĩa của triết học là khát vọng vươn tới tri thức, tìm kiếm chân lý. Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristoteles (384 – 322 tr. CN) là những người đã phân biệt tri thức triết học với các lĩnh vực khác của nhận thức, xác định nhiệm vụ của triết học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối (Platon), hay vươn tới cái phổ quát (universaly) trong thế giới, suy ra, đối tượng của triết học là cơ sở ban đầu và nguyên nhân của tồn tại. Như vậy triết học ở thời kỳ đầu tiên được xem như tri thức lý luận phổ quát duy nhất, bao trùm là “ khoa học của các khoa học”. Bàn thêm: thực ra chính Heraklitos mới là người sử dụng thuật ngữ “triết gia” như “ người yêu mến sự thông thái ”(philosophos), được tìm thấy trong bản văn của ông, còn Pythagoras hầu như không để lại dấu tích, nên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng H eraklitos mới là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ” philosophos”, sau đó hình thành thuật ngữ “ philosophia”. Từ thế kỷ XV trở đi quá trình chuyên biệt hóa tri thức đưa đến sự ra đời các ngành khoa học cụ thể, với hệ thống lý luận chuyên biệt của mình.Quan niệm truyền thống xem triết học là “khoa học của các khoa học” trên thực tế đã không thể hiện được bức tranh chung và lôgíc nội tại của sự phát triển tri thức. Định nghĩa triết học, do lệ thuộc vào các yếu tố khác nhau như đặc thù của từng khu vực (phương Đông, phương Tây), sự mở rộng không ngừng các lĩnh vực nghiên cứu, những biến đổi chính trị – xã hội, cách tiếp cận chủ quan của từng nhà triết học nên cũng không đạt được sự nhất trí hoàn toàn. Mặc dù vậy vẫn có thể chú ý đến các điểm chung nhất tron g đối tượng nghiên cứu của triết học với tính cách là hình thái đặc thù của ý thức xã hội và dạng nhận thức tổng quát như sau: + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn tại, hay khía cạnh bản thể luận của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của nhận thức, hay khía cạnh nhận thức luận của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của sự vận động và phát triển xã hội, hay triết học xã hội.

pdf40 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử triết học Phương Tây (dùng cho học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY (DÙNG CHO HỌC VIÊN CAO HỌC KHÔNG THUỘC CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC) Biên soạn: Đinh Ngọc Thạch, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG-HCM (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ) 2 NHẬP MÔN KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC I. TRIẾT HỌC - “CUỘC HÀNH TRÌNH HƯỚNG ĐẾN CHÂN LÝ” Giải thích tiêu đề: một cách hiểu về đặc trưng của tri thức triết học (phân biệt với tri thức khoa học chuyên biệt, cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên), do Hegel nêu ra. Mục này hiểu như khái luận về triết, bao gồm những nội dung dưới đây. 1. Triết học và đối tượng của triết học. Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII Tr. CN tại Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ “Triết học”* xuất phát từ tiếng Hy Lạp philosophia (với sự kết hợp phileo) – yêu thích, yêu mến, và sophia – thông thái, có nghĩa là “ yêu thích sự thông thái”. Cách hiểu đó ứng với thuật ngữ “triết học” ( Hán – Việt). Theo nghĩa rộng thuật ngữ “triết học” (philosophia, philosophy, philosophie) thể hiện: 1) khát vọng vươn đến tri thức, sự hiểu biết, thông thái, 2) “ thế tục hóa” sự thông thái thần linh. Khi tự xem mình là “ người yêu thích sự thông thái “ (philosophos) Pythagoras (nửa sau thế kỷ thứ VI - đầu thế kỷ V Tr.CN) đã nhấn mạnh ý nghĩa của triết học là khát vọng vươn tới tri thức, tìm kiếm chân lý. Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristoteles (384 – 322 tr. CN) là những người đã phân biệt tri thức triết học với các lĩnh vực khác của nhận thức, xác định nhiệm vụ của triết học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối (Platon), hay vươn tới cái phổ quát (universaly) trong thế giới, suy ra, đối tượng của triết học là cơ sở ban đầu và nguyên nhân của tồn tại. Như vậy triết học ở thời kỳ đầu tiên được xem như tri thức lý luận phổ quát duy nhất, bao trùm là “ khoa học của các khoa học”. Bàn thêm: thực ra chính Heraklitos mới là người sử dụng thuật ngữ “triết gia” như “ người yêu mến sự thông thái ”(philosophos), được tìm thấy trong bản văn của ông, còn Pythagoras hầu như không để lại dấu tích, nên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng H eraklitos mới là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ” philosophos”, sau đó hình thành thuật ngữ “ philosophia”. Từ thế kỷ XV trở đi quá trình chuyên biệt hóa tri thức đưa đến sự ra đời các ngành khoa học cụ thể, với hệ thống lý luận chuyên biệt của mình.Quan niệm truyền thống xem triết học là “khoa học của các khoa học” trên thực tế đã không thể hiện được bức tranh chung và lôgíc nội tại của sự phát triển tri thức. Định nghĩa triết học, do lệ thuộc vào các yếu tố khác nhau như đặc thù của từng khu vực (phương Đông, phương Tây), sự mở rộng không ngừng các lĩnh vực nghiên cứu, những biến đổi chính trị – xã hội, cách tiếp cận chủ quan của từng nhà triết học nên cũng không đạt được sự nhất trí hoàn toàn. Mặc dù vậy vẫn có thể chú ý đến các đi ểm chung nh ất trong đối tượng nghiên cứu của triết học với tính cách là hình thái đặc thù của ý thức xã hội và dạng nhận thức tổng quát như sau: + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn tại, hay khía cạnh bản thể luận của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của nhận thức, hay khía cạnh nhận thức luận của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của sự vận động và phát triển xã hội, hay triết học xã hội. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất và cơ bản nhất của con người, do con người tạo ra trong quá trình sáng tạo lịch sử, hay nhân học triết học* , triết học về con người. Tóm lại, triết học là học thuyết về những vấn đề và những nguyên lý chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ giữa con người với con người và với thế giới chung quanh. Một cách cô đọng, có thể hình dung các bộ phận của triết học là học thuyết về tồn tại (hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này), học thuyết về nhận thức, học thuyết về giá trị, thông qua đó làm sáng tỏ yếu tố nhận thức và yếu tố đánh giá trong mọi hệ thống triết học. Là sản phẩm tất yếu của sự phát triển và hoàn thiện của xã hội, triết học còn được xem như thành tố không tách rời của văn hóa tinh thần, tinh hoa tinh thần của mỗi thời đại và mỗi dân tộc trên những chặng đường nhất định. Triết học luôn được trình bày dưới dạng lý luận, trong đó thể hiện hệ thống các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật, các phương pháp nghiên cứu; chúng mang tính chất chung nhất, được phổ biến vào tự nhiên, xã hội, con người (tư duy về tư duy) – đó là đặc trưng của lý luận t riết học. Nói cách khác, triết học xem x ét thế giới như nội dung chỉnh thể và xác lập quan niệm có tính hệï thống về chỉnh thể đó. Từ cách tiếp cận giá trị, triết học là “ tinh hoa về mặt tinh thần” của thời đại, là thời đại được tái hiện dưới d ạng tư tưởng (C. Mác). Các triết gia, theo Mác, không phải như những cây nấm (hoang dại) mọc lên từ đất; họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình, mà dòng nhựa tinh tế, trong suốt được cô đọng trong các học thuyết triết học. Theo nghĩa đó mỗi hệ thống triết học đều hình thành, phát triển trên nền chung của văn hóa, được tiếp nhận, hiện thực hoá, được kế thừa, phổ biến và sáng lọc qua các thời đại. 2. Triết học và thế giới quan. Mọi triết học đều là thế giới quan, tức hệ thống các quan điểm về thế giới khách quan, về vị trí con người trong thế giới, về quan hệ của con người với thế giới xung quanh và với chính mình, kể cả thái độ sống của con người, chính kiến, lý tưởng, nguyên tắc nhận thức và hoạt động, định hướng giá trị, chịu sự chế định của những quan niệm ấy. Khái niệm “ thế giới quan” rộng hơn kh ái niệm “triết học”, nghĩa là triết học cũng là một dạng thế giới quan, có thể so sánh với các thế giới quan khác như thế giới quan thần thoại, thế giới quan nghệ thuật, thế giới quan tôn giáo Thế giới quan là kết quả phản ánh thế giới. Nó có thể diễn ra ở cấp độ đời thường, chịu tác động trực tiếp của điều kiện sống và kinh nghiệm của con người, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cấp độ này của thế giới tồn tại dưới hình thức các quan niệm tự phát, thiếu hệ thống về thế giới. Sự phản ánh thông quan các khái niệm, vạch ra được tính quy luật, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, là sự phản ánh ở cấp độ cao, gắn với tư duy trừu tượng và tri thức lý luận. Triết học thuộc về cấp độ này của thế giới quan. Thế giới quan triết học thể hiện dưới hình thức khái niệm, phạm trù, dựa vào các thành tựu của khoa học chuyên biệt, cụ thể về tự nhiên, xã hội và con người như chất liệu sống cho những luận giải mang tính khái quát lý luận cao của mình. 3 Ở phương diện lịch sử thế giới quan triết học xuất hiện muộn hơn thần thoại và tôn giáo.* Theo các dữ liệu khoa học hiện đại tôn giáo xuất hiện vào khoảng h ơn năm mươi ngàn năm trước đây, vào thời kỳ chớm bắt đầu tan rã của công x ã nguyên thủy, còn thần thoại thì ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người đã trở thành hình thái ý thức chủ đạo, là thế giới quan của người nguyên thủy. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng, của con người với thế giới xung quanh. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và của trí tưởng tượng; những quan niệm của họ về sự vật còn mơ hồ, rời rạc, phi lôgíc. Các yếu tố tư tưởng và tính cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên chưa bị phân đôi. Triết học ra đời chính là sự vượt qua tư duy dưới hình thức hình tượng cảm tính v à tự phát bằng tư duy lý luận, hay tư duy dưới hình thức các khái niệm, xác lập bức tranh về thế giới một cách có hệ thống. Triết học là trình độ tự giác trong quá trình phát triển của thế giới quan. Tóm lại, triết học là cấp độ cao nhất của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới. Theo nghĩa đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; nó có chức năng tìm hiểu và vạch ra ý nghĩa hợp lý và các quy luật phổ biến của sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người. II VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. 1. Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Với tính cách là tri thức lý luận có hệ thống luôn được làm giàu thêm qua mỗi chặng đường phát triển của lịch sử, triết học đứng trước hàng loạt các vấn đề cần giải đáp, trong đó có vấn đề vừa nêu trên: triết học là gì? Các nhà triết học căn cứ vào việc gi ải quyết vấn đề đó mà hình thành quan điểm của mình, xác nhận những nội dung cụ thể và sử dụng những ph ạm trù thích hợp để làm sáng tỏ điều cần quan tâm. Mỗi học thuyết triết học thường đặt ra một vấn đề chính xuyên suốt, thông qua đó bày tỏ quan điểm chủ đạo của mình. Các vấn đề khác đều xo ay quanh cái trục chính đó. Thời đại lịch sử cũng vậy: những đổi thay của xã hội, sự mở rộng không ngừng chân trời nhận thức của con người, sự phát triển ngày càng phong phú các lĩnh vực tri thức đưa đến sự điều chỉnh các vấn đề triết học. Cái hôm qua đóng vai trò chủ đạo ,hôm nay có thể biến thành thứ yếu,, nhược lại cái cá biệt, do sự vận động tiếp theo của lịch sử, có thể t rở thành cái phổ biến. Hệ thống các vấn đề triết học bao gồm: - Vấn đề bản thể luận (học thuyết về tồn tại) tập trung làm rõ cơ sở, bản chất của thế giới, của tồn tại nói chung, trong đó có diện mạo của tự nhiên, xã hội, và cả “thế giới của chính con người”. - Vấn đề nhận thức luận, thể hiện ở việc phân tích nguồn gốc, bản chất, quá trình nhận thức, khả năng và giới hạn của nhận th ức, các hình thức tri thức, vấn đề chân lý v.v.. - Vấn đề phương pháp luận ngày càng chiếm vị trí lớn trong các học thuyết triết học, trở thành một trong những tiêu chí thẩm định về tác dụng của các học thuyết đối với quá trình khám phá chân lý, qua đó chỉ ra vị trí của từng học thuyết trong đời sống xã hội. - Vấn đề nhân sinh – xã hội không thể thiếu trong các học thuyết triết học. Một học thuyết muốn khẳng định giá trị của mình cần phải hướng đến con ngưới ở những cấp độ và hình thức biểu hiện khác nhau. Cuộc tranh luận về bản chất con người, về những giá trị, chuẩn mực, lý tưởng, về không gian xã hội phù hợp với nhân tính, với xu thế vận động của lịch sử luôn trở thành điểm nóng trong lịch sử triết học. - Vấn đề giá trị luận không đơn thuần chỉ là sự đánh giá vị trí của một học thuyết trong đời sống xã hội, đặt nó trên nền chung của văn hóa nhân loại để làm nổi bật quy luật kế thừa tư tưởng, mà còn phân tích ngay các phạm trù liên quan đến khía cạnh này – khía cạnh giá trị. Cơ đọgn những vấn đề ấy, ta có thể rút ra vấn đề chung, quy định bản chất của tư duy triết học, đó là vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay “ tâm” và “ vật”, ý thức và vật chất. Đó là vấn đề cơ bản lớn của triết học, bởi lẽ việc giải quyết nó là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác, đồng thời cho phép xác định tính khuynh hướng thế giới quan của các học thuyết triết học, mà tính khuynh hướng đó, xét đến cùng, tập trung ở chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, cùng các biến thái của chúng. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: 1. Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, và cái nào là quyết định? (đúng hơn: cái nào mang tính thứ nhất, cái nào mang tính thứ hai) 2. Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, va ønhận thức như thế nào? 2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đưa đến sự hình thành hai khuynh hướng lớn trong lịch sử triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Các nhà duy vật giải thích mọi thứ từ vật chất, xem vật chất là cái có trước (cái mang tính thứ nhất), xuất phát và quyết định ý thức. Ngược lại, các nhà duy tâm giải thích mọi thứ trên cơ sở một bản nguyên tinh thần nào đó, xem tinh thần là cái có trước và quyết định trong quan h ệ với thế giới vật chất. Sự phân cực thế giới quan như vậy được thực hiện ngay t ừ thời cổ đại, và xuyên suốt quá trình phát triển của triết học, tạo nên xung lực của sự phát triển tư tưởng triết học. Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới quan, nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tâm trong nhiều trường hợp thể hiện sự ngạc nhiên thú vị trước cái “ siêu phàm”, cái “ thần tính” của con người, để phân biệt với cái “ không thuộc về thần linh”, không “ siêu phàm”, tức thế gi ới không-phải-con-người. Vì thế mà nhân đọc Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn” (V.I.Lênin toàn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 293). Trong quá trình phát sinh và phát triển của mình chủ nghĩa duy vật trải qua các hình thức cơ bản sau: 1. Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ (øCNDV tự phát, xét theo cơ sở, quá trình hình thành lẫn t rình độ của nó) t ại các nước phương Đông (Ấn Độ, Trung Quốc) và Hy Lạp, La Mã cổ đại là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật. Các nhà triết học bước đầu vượt qua thế giới quan huyền thoại, màthần thoại là hạt nhân của nó, giải thích nguyên nhân thế giới từ chính các yếu tố vật chất sẵn có của thế giới (đất, nước, lủa, không khí), xem xét sự hình thành của các sự vật một cách tự thân. Quá trình phát triển tiếp theo của chủ 4 nghĩa duy vật cổ đại cho thấy chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của lực lượng xã hội tiến bộ. Theo nghĩa đó chủ nghĩa duy vật đối lập với chủ nghĩa duy tâm được thể hiện qua cuộc đấu tranh giữa “ đường lối Đêmôcrít” và “ đường lối Platôn” (xem phụ lục 1). Chủ nghĩa duy vật, trong hình thức thô sơ của nó, có mối liên hệ hữu cơ với khoa học và trình độ nhận thức chung. Các nhà duy vật cổ đại, thông qua giải đáp câu hỏi về bản nguyên thế giới, đã xác định cơ sở của tồn tại là các hành chất, yếu tố vật chất cụ thể, hay giả định (apeiron, homeomeria, atomos). Tồn tại hai cách giải thích bản nguyên thế giới – cách giải thích “ nhất nguyên” (trường phái Milet, Heraclitos) và “ đa nguyên” (Empedocles, Anaxagoras, nguyên tử luận). Trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật chất phác với tính cách là hình thức lịch sử thứ nhất của chủ nghĩa duy vật, nguyên tử luận duy vật, do L ơxíp (Leucippos) khởi xuớng, Đêmôcrít (Demokritos) phát tri ển, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là điển hình của tư tưởng duy vật cổ đại. Thứ nhất, các nhà nguyên tử luận đ ã xác lập bức tranh độc đáo, phi nhân hình về thế giới từ việc lý giải nguyên tử như cơ s ở của tồn tại (giải thích). Thứ hai, giải thích các sự vật, hiện tượng diễn ra t rong thế giới theo tính tất yếu tự nhi ên, không thừa nhận sự can thiệp của các lực lượng siêu nhiên vào quá trình thế giới. Thứ ba, vận dụng nguyên tử luận vào vi ệc gi ải thích vấn đề con người (xem sự sống và cái chết chỉ là sự hợp nh ất và phân rã các nguyên tử, không thừa nhận sự bất tử của linh hồn) và chính trị - xã hội (ủng hộ nền dân chủ với tính cách là quyền lực của nhân dân, hay của các “ nguyên tử xã hội”). Thứ tư, gợi mở về khoa học (quan niệm về nguyên tử như những phần tử bé nhất, bất khả phân đã kích thích tư duy khoa học trong nhiều thế kỷ). Tính chất ấu trĩ của chủ nghĩa duy vật cổ đại gắn với trình độ nhận thức chung của loài người thời kỳ này. Phần lớn nhận định của chủ nghĩa duy vật căn cứ vào sự quan sát trực tiếp hay suy tưởng của các triết gia, mà chư a được luận chứng bằng chất liệu sống của tri thức khoa học, vốn còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai. Bên cạnh đó do chịu sự quy định của điều kiện xã hội, văn hóa hiện tồn, nhiều nhà duy vật chưa chấm dứt hẳn sự ràng buộc của th ế giới quan nguyên thủy (vật hoạt luận, vật linh thuyết, nhân hình hóa) và các yếu tố huyền học (occultism). Những yếu tố đó phát tri ển trong điều kiện thích h ợp sẽ tạo nên cả một khuynh hướng thế giới quan, đối lập trực tiếp với chủ nghĩa duy vật. Giảng viên dẫn chứng tư liệu để làm rõ những mặt tích cực và hạn chế lịch sử của CNDV trong triết học cổ đại, cả phương Đông lẫn phương T ây cổ đại. 2. Chủ nghĩa duy vật máy móc - siêu hình ở châu Âu Phục hưng và cận đại ( thế kỷ XVII -nửa đầu thế kỷ XIX, nghĩa l à từ F.Bacon, chủ nghĩa kinh nghiệm-duy vật Anh, chủ nghĩa duy vật Pháp, Hà Lan đến Feuerbach) là hình thức lịch sử thứ hai của chủ nghĩa duy vật. Nó bắt đầu từ tư tưởng duy vật trong việc xác lập b ức tranh vật lý về thế gi ới ở các nhà khoa học Phục hưng (Copernic, Bruno, Galilei.. .) đến các nhà duy vật thế kỷ XVII tại Anh, Pháp, Hà Lan, Italia... và kết thúc ở chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tại Đức, trước khi được thay thế bằng hình thức tiếp theo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này phát triển trong mối liên hệ với khoa học tự nhiên. Về bản thể luận, nhờ biết dựa vào các thành tựu khoa học các nhà duy vật đã xác lập được các bức tranh mới về thế giới, bước đầu đưa ra những nhận định hợp lý về tự nhiên, các quy luật của nó, lý giải vấn đề vật chất, vận động, không gian và thời gian phù hợp với trình độ nhận thức và khoa học của thời đại. Trong số các nhà duy vật Phục hưng và cận đại, các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII như La Mếtri (La Mettrie), Điđơrô (Diderot), Hônbách (Holbach), Henvêtuýt (Helvetius) đã đưa ra cách tiếp cận gần với hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật (khẳng định tính đa dạng của vật chất, xem vận động như mọi sự thay đổi nói chung. Phoiơbắc (Feuerbach) – đại biểu cuối cùng của tri ết học cổ điển Đức, đã phục hồi và phát triển một bước các thành quả của chủ nghĩa duy vật trong bối cảnh chủ nghĩa duy tâm đang thống trị tại Đức nửa sau thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, khắc phục phần nào tính chất máy móc của chủ nghĩa duy vật Anh và Pháp trước đó. Về nhận thức luận, các nhà duy vật thời kỳ này đề cao tinh thần ph ê phán và hoài nghi đối với chủ nghĩa giáo điều và giả khoa học, nhất là triết họ c kinh viện v à những khuyết tật trong ý thức con người (Bêcơn với họ c thuyết về ngẫu tượng, Đềcác với lý luận về hoài nghi, Hốpxơ và Lốccơ với thái độ phê phán uy quyền tư tưởng), đồng thời xác lập phương pháp nhận thức khoa học, dựa vào các thành quả của khoa học lúc ấy – khoa học tự nhiên thực nghiệm và khoa học tự nhiên lý thuyết, toán học. T rong lý luận nhận thức đã hình thành hai khuynh hướng chủ đạo là chủ nghĩa kinh nghiệm (Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ) và chủ nghĩa duy lý (Đêcác, Xpinôda). Về quan điểm nhân sinh – xã hội, các nhà duy vật đồng thời là những nhà nhân văn, khai sáng tiêu biểu của thời đại, ttham gia vào quá trình thiết lập “ nhà nước học lý tính”, đề cao hình ảnh” con người lý trí” và các giá trị nhân v ăn chủ đạo. Nhiều nội dung, luận điểm, lý tưởng chính trị được nêu ra từ thời kỳ này đến nay vẫn tiếp tục thể hiện như mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Hạn chế lịch sử của chủ nghĩa duy vật Phục hưng và cận đại, nhất là chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII, trải đều ở khía cãnh bản thể luận, nhận thức luận, nhân sinh – xã hội. Về bản thể luận, sự phổ biến mạnh mẽ của cơ học, là ngành khoa học chiếm vị trí thống trị vào thế kỷ XVII – XVIII, đã ảnh hưởng đến cách thức tư duy của đa phần các nhà duy vật. Dưới tác động của cơ học, các nhà triết học ( nhất là các nhà triết học thế kỷ XVII ) quy các quá trình của tự nhiên vào dạng vận động cổ điển là vận động cơ học, xem con người và các thiết chế xã hội như hệ thống máy móc phức tạp (công thứùc: “ con người - cỗ máy”). Tính chất máy móc t ất yếu g ắn với tí nh chất siêu hình: trong khi nỗ lực đào sâu từng mặt, từng thuộc tính của sự vật , khám phá bản chất sâu kín của vạn vật (siêu hình), các nhà triết học duy vật xem xét chúng trong trạng thái tách biệt, chưa vạch ra mọt cách thấu đáo mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng cũng như không đưa ra lời giải đáp hợp lý về nguồn gốc và động lực của vận động và phát triển. Về nhận thức luận, tính cực đoan và phiến diện trong việc lý giải nguồn gốc, bản chất, quá trình nhận thức thể hiện ở chính sự đối lập khuynh hướng kinh nghiệm và khuynh hướng duy lý. Một bên xem kinh nghiệm, cảm giác là nguồn gốc tri thức, bên kia thì lại đ ề cao năng lực trí tuệ tự thân, “ trực giác t rí tuệ”. Một bên dựa vào thàn