Tóm tắt
Hiện nay, “lợi ích quốc gia” là một khái niệm rộng và nội hàm thuật ngữ còn có nhiều khác biệt
trong quan điểm của các học giả, các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Trước một lý thuyết còn
là chủ đề tranh luận của nhiều học giả, theo chúng tôi, vấn đề nên được tiếp cận dưới nhiều góc độ, và
bài viết này xin giới thiệu những nét căn bản về lý thuyết “lợi ích quốc gia” từ góc nhìn lịch sử và văn
hóa chính trị.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu “Lợi ích quốc gia” - Tiếp cận từ góc độ lý thuyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
35Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
“LỢI ÍCH QUỐC GIA” - TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ LÝ THUYẾT
NGUYỄN TIẾN DŨNG*
Tóm tắt
Hiện nay, “lợi ích quốc gia” là một khái niệm rộng và nội hàm thuật ngữ còn có nhiều khác biệt
trong quan điểm của các học giả, các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Trước một lý thuyết còn
là chủ đề tranh luận của nhiều học giả, theo chúng tôi, vấn đề nên được tiếp cận dưới nhiều góc độ, và
bài viết này xin giới thiệu những nét căn bản về lý thuyết “lợi ích quốc gia” từ góc nhìn lịch sử và văn
hóa chính trị.
Từ khóa: Lợi ích, lợi ích quốc gia, lý thuyết
Abstract
Nowadays, “national interests” is a broad concept and its connotation has differences in the views
of domestic as well as foreign scholars and researchers. Dearling with a theory that is still the subject of
debate among many scholars, in our opinion, it should be approached from many perspectives. This
article introduces the basic features of the theory of “national interests” from the perspective of history
and cultural politics.
Keywords: Interest, national interests, theory
Trong đời sống chính trị quốc tế hiện đại, “lợi ích quốc gia” trở thành một thuật ngữ thông dụng đối với các
nhà chính trị và các nhà khoa học chính trị.
Tuy nhiên, cũng giống như nội hàm thuật ngữ
“chủ quyền quốc gia”1, thuật ngữ “lợi ích quốc
gia” là một khái niệm phức tạp, việc không có
tiêu chuẩn hay khái niệm chung được chấp
nhận dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau
về “lợi ích quốc gia”2.
1. Khi tiếp cận dưới góc độ lý thuyết, câu hỏi
quen thuộc đó là, lợi ích quốc gia xuất hiện từ
khi nào? Và nó có mối liên hệ gì với nhà nước?
Dù còn nhiều tranh biện xung quanh nội hàm
của thuật ngữ3, song phần lớn các học giả đều
thống nhất rằng lợi ích quốc gia có mối liên hệ
mật thiết với nhà nước và nếu không có nhà
nước, thì không có lợi ích quốc gia.
Để có cách nhìn tương đối căn bản, đầy
đủ về khái niệm “lợi ích quốc gia”, các học giả
ngành khoa học chính trị/văn hóa chính trị
cũng như triết học/tư tưởng cho rằng trước
tiên phải khảo sát và nghiên cứu chuyên sâu
về khái niệm “lợi ích”4. Điều chắc chắn là, lợi
ích là một khái niệm xã hội rộng, mà bản thân
con người lại mang tính chất xã hội. Vì nhiều
nguyên nhân, con người được phân chia thành
các giai cấp và tầng lớp khác nhau, do đó, lợi
ích của họ cũng khác nhau, chẳng hạn như lợi
ích cá nhân, lợi ích gia đình, lợi ích của trẻ em,
lợi ích của phụ nữ, lợi ích giai cấp, lợi ích đảng
phái, lợi ích xã hội, lợi ích chính phủ Trong
khi đó, nhà nước là chủ thể quan trọng nhất
trong nền chính trị quốc tế. Trong hầu hết các
luận thuyết về chính trị, nhà nước được hình
thành khi con người đạt tới một giai đoạn phát
triển nhất định. Nhà nước với chức năng đối
ngoại của mình được sinh ra là để thực hiện
lợi ích quốc gia và nhà nước cũng là đại diện * TS., Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Số 32 (Tháng 6 - 2020)36
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
của quốc gia trong việc thực thi, bảo vệ lợi ích
quốc gia trong quan hệ quốc tế. Và như vậy,
khái niệm lợi ích quốc gia không thể tồn tại trước
khi có sự hình thành nhà nước.
Bên cạnh đó, lợi ích quốc gia là một khái niệm
rộng lớn, gắn liền với sự ra đời của các hình thái
nhà nước trong lịch sử cũng như có sự vận động
cùng với quá trình hình thành quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, một quốc gia dân tộc hiện đại lại
xuất hiện khá muộn trong lịch sử nhân loại và
phần lớn mô hình nhà nước này chỉ được hình
thành một cách rõ nét sau Hòa ước Westphalia
năm 1648 ở châu Âu5. Mô hình quốc gia dân
tộc ở châu Âu thời kỳ này được chuyển hóa
từ nhà nước thành bang, nhà nước cộng hòa
kiểu Roma, các đế chế, vương quốc và lãnh
địa của các công tước6. Theo các nhà nghiên
cứu, ở những khu vực khác trên thế giới, mô
hình quốc gia dân tộc thậm chí được hình
thành muộn hơn khá nhiều so với các quốc
gia ở châu Âu. Nếu như ở Mỹ, quốc gia dân tộc
được thành lập tương đối nhanh chóng vào
thế kỷ XVIII sau phong trào đấu tranh giành
độc lập thì các nhà nước dân tộc ở châu Á lại
không xuất hiện trước thế kỷ XX, sau khi các
quốc gia này trải qua các mô hình nhà nước
như nhà nước phong kiến, đế chế, nhà nước
hàng hải, và nhà nước thuộc địa... Trong khi
đó, ở châu Phi, tuy cũng có một số nhà nước
và đế chế trong lịch sử, song với chế độ thuộc
địa kéo dài khoảng 400 năm cho nên các quốc
gia dân tộc không được thành lập cho đến sau
Chiến tranh thế giới lần thứ II. Sau khi quốc gia
dân tộc được hình thành thì lợi ích quốc gia
ngày càng được chú ý vì chức năng quan trọng
nhất của nhà nước là để duy trì và bảo vệ lợi ích
quốc gia7. Đây là sự khác biệt căn bản so với
thời kỳ trước đó, thời kỳ mà như quan điểm
của Wistermarck, ở châu Âu trong suốt thời kỳ
Trung đại, các thần dân thường trung thành
trước tiên với một nhà quý tộc hơn là một nhà
nước, nơi mà các nhà quý tộc đang sinh sống8.
Thực tế cho thấy, phải mất một thời gian
dài để lợi ích quốc gia được thừa nhận và trở
thành quan điểm căn bản trong việc xây dựng
chính sách đối ngoại. Cũng giống như những
đóng góp lớn trong việc định hình luận thuyết
về chủ quyền, ở châu Âu, trong suốt thời kỳ Phục
hưng, các nhà tư tưởng như Nicolo Machiavelli
ở Italy, Jean Bodin ở Pháp, Hugo Grotius của Hà
Lan và Thomas Hobbes của Anh cũng đã tiếp tục
phát triển khái niệm về lợi ích quốc gia. Trong
các luận điểm của mình, các học giả này cho
rằng hành vi chính trị của nhà nước nên tuân
theo lợi ích quốc gia. Thêm vào đó, họ cũng
soạn thảo kỹ lưỡng luận cứ về lợi ích quốc gia
trong các bản báo cáo nhằm phát triển chính
sách ngoại giao. Họ không xóa bỏ hoàn toàn
tư tưởng cho rằng sức mạnh của một vương
triều được trao bởi Chúa. Và họ vẫn tin rằng,
mỗi vương triều đại diện cho quyền lợi của dân
tộc và vương triều đó lại nắm giữ lợi ích căn bản
nhất của một đất nước là chủ quyền [16, tr.16].
Có thể thấy rằng, cùng với sự nổi lên của
quốc gia dân tộc ở châu Âu từ thế kỷ XVII, thuật
ngữ “lợi ích quốc gia” bắt đầu xuất hiện để chỉ
lợi ích chung của toàn xã hội bên trong quốc gia.
Thời kỳ này, nội dung chủ yếu của lợi ích quốc
gia được tập trung vào lợi ích chính trị và lợi
ích kinh tế.
Kế tiếp các nhà tư tưởng đi trước, Jean
Jacques Rousseau đã có những đóng góp
quan trọng trong việc nhận thức một cách đầy
đủ hơn về lợi ích quốc gia. Trong suốt phong
trào Khai sáng ở Pháp thế kỷ XVIII, Jean Jacques
Rousseau đã phát triển lý thuyết về chủ quyền
của nhân dân trong tác phẩm “Khế ước xã hội”.
Đây là một đóng góp lớn về nhận thức luận,
từ nhận định lợi ích quốc gia phụ thuộc vào
từng vương triều, trong công trình nổi tiếng
của mình, Rousseau tin rằng một đất nước là
một thực thể chính trị, trong đó gồm có toàn
bộ nhân dân và dựa trên một khế ước xã hội.
Nhân dân là tập hợp của mỗi cá nhân riêng
lẻ, chính vì thế, hơn ai hết, nhân dân là người
nắm giữ chủ quyền, chủ quyền là lợi ích quốc gia
căn bản nhất và được dựa trên ý chí của toàn bộ
nhân dân. Khi Jean Jacques Rousseau bàn về
37Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
quyền lực thuộc về nhân dân thì quyền lực đó có
mối liên hệ mật thiết với lợi ích quốc gia. Trong
quan điểm của Rousseau, lợi ích quốc gia phải vì
nhân dân chứ không phải vì nhóm cầm quyền,
lợi ích quốc gia khác lợi ích chế độ9.
Bước sang thế kỷ XIX, lợi ích quốc gia trở
thành nguyên tắc tối quan trọng của mỗi nước
khi tham gia các hoạt động quan hệ quốc tế.
Nếu như Tử tước Palmerston - Nguyên Thủ
tướng Anh, đã có tuyên bố nổi tiếng về lợi
ích của nước Anh: “Nước Anh không có kẻ thù
vĩnh viễn cũng như không có bạn bè vĩnh viễn,
mà chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn” [10, tr.1];
thì trong công trình “The Interest of America in
Sea Power - Present and Future”, nhà tư tưởng
người Mỹ Alfred Thayer Mahan đưa ra quan
điểm rằng, lợi ích quốc gia là điều cần lưu tâm
nhất trong chính sách đối ngoại. Trong công
trình của mình, ông đã chỉ rõ mối quan hệ giữa
lợi ích quốc gia và chính sách ngoại giao, theo
đó, lợi ích của một quốc gia là nền tảng căn bản
và hợp pháp đối với chính sách của một quốc
gia. Ông cho rằng, lợi ích quốc gia cần được
luận giải một cách đúng đắn, hợp hiến và mọi
hành động của chính phủ cần dựa trên cơ sở
của lợi ích quốc gia [16, tr.16]. Sau Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, lý thuyết lợi ích quốc gia
dần được hoàn thiện và các học giả Mỹ đi đầu
về vấn đề này. Nghiên cứu về chủ đề này được
củng cố trong giới học giả Liên Xô từ thập niên
70 và không phát triển trong giới học thuật ở
Trung Quốc cho đến thập niên 80 của thế kỷ
XX [16, tr.16].
2. Có thể thấy rằng, nhận thức đầy đủ về
thuật ngữ lợi ích quốc gia là cả quá trình lâu
dài trong lịch sử, song cho đến nay, trong giới
nghiên cứu khoa học chính trị, văn hóa chính
trị vẫn còn những biện luận khác nhau về nội
hàm của thuật ngữ, cho nên điều dễ hiểu là,
các học giả cũng đã đưa ra nhiều cách thức
phân loại lợi ích quốc gia. Vậy lợi ích quốc gia
được phân chia thành những loại hình nào?
Học giả người Mỹ Hans Morgenthau đã
phân chia lợi ích quốc gia thành hai kiểu là
lợi ích chính yếu (primary) và lợi ích thứ yếu
(secondary). Theo ông, lợi ích chính yếu bao
gồm lợi ích vật chất, lợi ích chính trị, bản sắc
văn hóa và an ninh cũng như sự tồn vong của
quốc gia, toàn bộ công dân phải bảo vệ lợi
ích này bằng mọi giá. Lợi ích thứ yếu là kiểu lợi
ích có thể thương lượng và thỏa hiệp, mặc dù
kiểu lợi ích này khó có thể định nghĩa được,
song nó phải nằm ngoài lợi ích chính yếu và
không được đe dọa đến chủ quyền quốc gia
[14, tr.24].
Trong khi đó, học giả Donald Nuechterlein
lại phân chia lợi ích quốc gia thành 4 loại
căn bản. Đó là: Lợi ích quốc phòng (Defense
interests) nhằm bảo vệ nhà nước dân tộc,
hệ thống chính phủ và công dân, chống lại
những đe dọa có thể đến từ các quốc gia bên
ngoài; Lợi ích kinh tế (Economic interests) là
sự tăng cường phúc lợi kinh tế của nhà nước
trong quan hệ với các nước khác; Lợi ích trật tự
thế giới (World Order interests) là nhằm giữ gìn
hệ thống kinh tế và chính trị thế giới mà trong
đó nhà nước dân tộc có thể cảm thấy an toàn,
đồng thời, công dân và các hoạt động thương
mại của họ có thể được đảm bảo bên ngoài
biên giới lãnh thổ của mình; Lợi ích về ý thức
hệ (Ideological interests) nhằm bảo vệ và duy
trì một tập hợp các giá trị mà trong đó công
dân của mỗi nhà nước dân tộc cùng nhau chia
sẻ và tin tưởng những lợi ích chung [13, tr.33].
Cùng với quan điểm Hans Morgenthau và
Donald Nuechterlein, trong công trình nghiên
cứu của mình, tác giả Yan Xue-Tong lại phân
chia lợi ích quốc gia thành các loại khác nhau
cùng với những tiêu chí khác nhau kèm theo,
đó là 4 cách thức phân chia: 1. Căn cứ theo nội
dung; 2. Căn cứ vào khoảng thời gian đạt được
lợi ích; 3. Dựa theo tầm quan trọng; 4. Căn cứ
vào phạm vi lợi ích.
Đối với cách thức phân chia căn cứ theo nội
dung, trong quan điểm của Yan Xue-Tong, lợi
ích quốc gia có thể được phân chia thành lợi
ích chính trị, lợi ích an ninh, lợ i ích kinh tế và
Số 32 (Tháng 6 - 2020)38
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lợi ích văn hóa. Đối với mỗi loại, lợi ích thậm
chí có thể phân nhỏ thêm thành các lợi ích
cụ thể. Lợi ích chính trị có thể được phân chia
thành độc lập chính trị, chủ quyền nhà nước,
và vị thế quốc tế Lợi ích an ninh có thể được
chia thành ưu thế quân sự, an ninh lãnh thổ, lợi
ích hàng hải Lợi ích kinh tế có thể được chia
thành thương mại xuất/nhập khẩu, thu hút
đầu tư quốc tế, đầu tư hải ngoại và xuất/nhập
khẩu công nghệ Lợi ích văn hóa có thể bao
gồm sự truyền bá văn hóa quốc gia, bảo vệ
văn hóa quốc gia trước sự tấn công của những
tư tưởng văn hóa suy đồi từ bên ngoài. Lợi ích
chính trị của một nước là biểu hiện tập trung của
toàn bộ lợi ích quốc gia, với cốt lõi là chủ quyền
nhà nước. Lợi ích an ninh là nền tảng của lợi
ích quốc gia. Chỉ khi lợi ích an ninh được đáp
ứng ở mức độ nhất định thì các lợi ích quốc
gia khác mới có thể được nhìn nhận. Lợi ích
kinh tế là kiểu lợi ích quốc gia bất biến nhất.
Khi sự tồn vong của một đất nước được đảm
bảo chắc chắn, chính sách đối ngoại của nó sẽ
theo đuổi lợi ích kinh tế như lợi ích quan trọng
nhất. Vì thế, có thể coi lợi ích kinh tế là lợi ích
căn bản hay lợi ích tối thượng. Lợi ích văn hóa
là khía cạnh tinh thần của lợi ích quốc gia, thứ
mà tương đối khó để nhận biết.
Bên cạnh đó, căn cứ vào khoảng thời gian
để đạt được một lợi ích, tác giả Yan Xue-Tong
lại phân chia lợi ích quốc gia thành lợi ích vĩnh
cửu và lợi ích biến đổi. Lợi ích vĩnh cửu là bất
diệt, còn lợi ích biến đổi có thể được phân chia
thêm thành lợi ích dài hạn, trung hạn và ngắn
hạn. Lợi ích vĩnh cửu là vững chắc nhất. Chúng
không mất cho đến khi bản thân quốc gia dân
tộc biến mất. Nếu một nhà nước muốn tồn tại thì
nó không thể từ bỏ kiểu lợi ích này. Ví dụ như sự
toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, chủ quyền
nhà nước, và khả năng theo đuổi sự phát triển
kinh tế. Lợi ích dài hạn là lợi ích quốc gia tương
đối vững chắc. Chúng được theo đuổi bởi nhà
nước dân tộc trong suốt một thời gian dài và
bao gồm các lợi ích như cân bằng sinh thái, lực
lượng hạt nhân quân sự và hiện đại hóa công
nghiệp. Các lợi ích này tăng lên khi xã hội loài
người đạt đến một trình độ nhất định. Lợi ích
trung hạn là lợi ích quốc gia tồn tại trong một
khoảng thời gian nhất định. Chúng thường
kéo dài trong một vài năm hay vài chục năm.
Ví dụ như việc nhập khẩu một số loại phương
tiện quân sự tiên tiến, hay cố gắng để nhận
được sự tài trợ về kinh tế Lợi ích ngắn hạn là
ít vững chắc nhất trong các loại lợi ích. Chúng
thay đổi với những thay đổi khác trong môi
trường quốc tế. Chúng là lợi ích tạm thời, là thứ
mà phần lớn các quốc gia theo đuổi.
Còn dựa trên tầm quan trọng, trong quan
điểm của Yan Xue-Tong, lợi ích quốc gia có thể
được phân chia thành lợi ích tối quan trọng, lợi
ích quan trọng, lợi ích quan trọng vừa phải và
lợi ích ít quan trọng. Lợi ích tối quan trọng bao
gồm cân bằng chiến lược quốc tế một cách có
lợi, bảo tồn uy tín quốc gia, khả năng lựa chọn
mô hình phát triển và đảm bảo lợi ích kinh tế
quan trọng. Lợi ích quan trọng liên quan đến
đời sống và an toàn của người dân cũng như
đối với sự ổn định lâu dài của hệ thống chính
trị ở một đất nước và đời sống kinh tế, toàn
vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị, độc lập kinh tế
và sự nối dài của hệ thống chính trị. Sự khác
biệt giữa lợi ích tối quan trọng và lợi ích quan
trọng đó là lợi ích tối quan trọng thì ít bị đe
dọa hơn lợi ích quan trọng. Lợi ích quan trọng
vừa phải được theo đuổi khi không có một sự
đe dọa nổi cộm về tồn vong, chẳng hạn như
sự mở rộng thị trường xuất khẩu, duy trì sự
vững mạnh về công nghệ, thu hút đầu tư quốc
tế, giữ vững sự ổn định chính trị thế giới, cải
thiện các mối quan hệ song phương Lợi ích ít
quan trọng là kiểu lợi ích không gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và lợi ích
kinh tế chiến lược.
Cuối cùng, căn cứ vào phạm vi lợi ích, tác giả
Yan Xue-Tong phân chia lợi ích quốc gia thành
lợi ích hoàn toàn (lợi ích chung), lợi ích một
phần (lợi ích bộ phận) và lợi ích cá nhân. Lợi ích
hoàn toàn là kiểu lợi ích được theo đuổi bởi mọi
nhà nước có chủ quyền như chủ quyền nhà
39Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nước, vị thế quốc tế và an toàn của cư dân
Lợi ích bộ phận là thứ chỉ được theo đuổi bởi
một số quốc gia. Chúng bao gồm trật tự thế
giới và vai trò lãnh đạo; vai trò lãnh đạo trong
các vấn đề khu vực và hợp tác khu vực (thường
được theo đuổi bởi các quốc gia trong cùng
một khu vực nhất định); an ninh phụ thuộc
lẫn nhau và liên minh được theo đuổi bởi các
quốc gia tham gia liên minh quân sự Lợi ích
cá nhân là những thứ được theo đuổi bởi từng
quốc gia, đó là sự khác biệt về lợi ích mà từng
quốc gia theo đuổi [16, tr.19-20].
Ngoài ra, các học giả, các nhà nghiên cứu
còn đưa ra nhiều cách phân loại lợi ích quốc
gia khác nhau. Dựa trên mức độ quan trọng
đối với quốc gia, có lợi ích sống còn - lợi ích
quan trọng - lợi ích thứ yếu. Dựa trên quy mô
thời gian, có lợi ích chiến lược hay lợi ích dài
hạn, trung hạn và ngắn hạn. Dựa trên quy mô
không gian, có lợi ích tổng thể - lợi ích cụ thể.
Dựa trên khả năng chia sẻ với các quốc gia
khác, có lợi ích chung - lợi ích riêng. Dựa trên
so sánh có lợi ích tuyệt đối và lợi ích tương
đối. Dựa trên lĩnh vực có lợi ích chính trị - lợi
ích kinh tế - lợi ích an ninh - lợi ích văn hóa
[11, tr.58].
3. Có thể thấy rằng, lợi ích quốc gia có nội
hàm khái niệm rất rộng lớn và được phân chia
thành nhiều loại khác nhau. Vậy, đâu là lợi ích
quốc gia căn bản nhất? Chủ nghĩa Hiện thực
cho rằng chỉ có an ninh là cơ bản, Chủ nghĩa
Mác - Lênin đề cao lợi ích giai cấp, trong khi
các lý thuyết quan hệ quốc tế khác lại nhấn
mạnh đến các lợi ích căn bản như kinh tế, môi
trường... [11, tr.61]. Đối với một thuật ngữ hiện
vẫn là chủ đề tranh luận của nhiều học giả và
nhiều nhà nghiên cứu, theo chúng tôi, lợi ích
quốc gia là khái niệm dùng để chỉ lợi ích thiết yếu,
cốt lõi của một đất nước, bao gồm: lợi ích chính trị,
lợi ích kinh tế, lợi ích an ninh, lợi ích văn hóa Đó
là những thành tố quan trọng hợp thành lợi ích
chung, tổng thể của một đất nước.
N.T.D
Chú thích
1 Về lý thuyết “chủ quyền quốc gia”, xin tham
khảo thêm: Nguyễn Tiến Dũng (2019), “Về lý
thuyết “chủ quyền quốc gia” trong lịch sử quan
hệ quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3 (515),
tr.58-70.
2 Xung quanh khái niệm “lợi ích quốc gia”
đã có nhiều quan điểm và cách luận giải khác
nhau; về những thảo luận xung quanh nội
hàm khái niệm, xin tham khảo cụ thể: Jutta
Weldes (1996), “Constructing National Interests”,
European Journal of International Relations, Sage
Publications, London, Thousand Oaks, CA, and
New Delhi, Vol. 2 (3), pp.275-318; H. W. Brands
(1999), “The Idea of the National Interest”, Journal
of Diplomatic History, The Society for Historians
of American Foreign Relations (SHAFR), Vol.
23, No. 2 (Spring), pp.239-261; David McCabe
(1999), “The Idea of the National Interest”, The
Philosophical Forum, Volume XXX, No. 2, June,
pp 91-114; M. S. Rajan (1953), “The Idea of the
National Interest”, The Indian Political Science,
Vol. 14, No. 3 (July-September), pp.188-200;
J. Peter Pham (2008), “What is in the National
Interest? Hans Morgenthau’s Realist Vision and
American Foreign Policy”, American Foreign Policy
Interests, Vol. 30, pp.256-265; James F. Miskel
(2002), “National Interests: Grand Purposes
or Catchphrases?”, Naval War College Review,
Autumn, Vol. LV, No. 4, pp.96-104; Michael G.
Roskin (1994), National Interest: From Abstraction
to Strategy, Strategic Studies Institute, US. Army
War College, USA, May 20, pp.1-15; Rear Admiral
Simon Williams OBE (2012), The Role of the
National Interest in the National Security Debate,
Dissertation, Royal College of Defence Studies,
UK, July; Terence Joseph Kersch (1995), The Idea
of the National Interest: A Conceptual Analysis in
the Context of the Gulf War, PhD Dissertation, The
University of British Columbia, USA, April; Rozeta
E. Shembilku (2004), The “National Interest” -
Tradition and the Foreign Policy of Albania, MA
Thesis, The Fletcher School, Tufts University,
USA
3 Trong chuyên khảo Về chính sách đối ngoại
và ngoại giao Việt Nam, tác giả Vũ Dương Huân
cho rằng lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là
khái niệm đồng nhất. Về khái niệm lợi ích quốc
gia, theo tác giả Vũ Dương Huân: “... Là toàn bộ
những nhu cầu sống còn và phát triển của quốc
Số 32 (Tháng 6 - 2020)40
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
gia, được lãnh đạo quốc gia nhận thức dưới dạng
mục tiêu chiến lược an ninh đối ngoại, chiến
lược đối ngoại của quốc gia tr