Mặc dù trên thế giới đã có nhiều trại nuôi san hô nhưng mục
đích của sáng kiến trên là sản xuất ra các loại san hô để bảo
tồn các rạn san hô và nghiên cứu khoa học. Mục tiêu của dự
án là tái trồng san hô trong những khu vực đã bị phá huỷ,
đồng thời hạn chế tối đa việc khai thác san hô và tạo ra công
ăn việc làm mới cho những người sống dựa vào vùng rạn.
Thông thường, phần lớn các trại nuôi trồng san hô đều đánh
bắt san hô hoang dã về, đập nhỏ và nhân giống.
11 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lombok frags - Phương pháp nuôi san hô nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lombok frags - phương pháp nuôi san hô nhân tạo
Mặc dù trên thế giới đã có nhiều trại nuôi san hô nhưng mục
đích của sáng kiến trên là sản xuất ra các loại san hô để bảo
tồn các rạn san hô và nghiên cứu khoa học. Mục tiêu của dự
án là tái trồng san hô trong những khu vực đã bị phá huỷ,
đồng thời hạn chế tối đa việc khai thác san hô và tạo ra công
ăn việc làm mới cho những người sống dựa vào vùng rạn.
Thông thường, phần lớn các trại nuôi trồng san hô đều đánh
bắt san hô hoang dã về, đập nhỏ và nhân giống. Phương pháp
của Công ty SA Amblard dựa vào hình thức để san hô tự sinh
sôi nảy nở. Ðể đạt được mục tiêu đó, công ty đã phải cố gắng
tìm kiếm các gốc san hô bố mẹ để nhân giống. Khi khai thác
về, họ giành từ 20 - 40% để gây giống, tuỳ theo từng loài.
Những gốc san hô được bảo quản trong các ngăn đặc biệt và
được để giành cho những lần nhân giống tiếp theo.
Sản xuất giống san hô
Trong một vài năm gần đây, các loài cá cảnh rạn san hô đã
được chú ý nhiều hơn, do đó nhu cầu về san hô và một số
loại thuỷ sinh vật không xương sống khác cũng tăng mạnh.
Tình trạng này đã gây nhiều tác động tới môi trường và tài
nguyên biển. San hô được bảo tồn và có tên trong Bảng phụ
lục số 2 thuộc Công ước Oasingtơn về buôn bán động vật
quý hiếm trên phạm vi quốc tế. Do đó, việc buôn bán san hô
là đối tượng quản lý nghiêm ngặt, phải có giấy phép xuất
nhập khẩu do chính phủ nước xuất - nhập khẩu cấp, đồng
thời những nước này cũng phải tuân theo Công ước
Oasingtơn.
Trong những năm gần đây, Inđônêxia là nước xuất khẩu san
hô sống hàng đầu thế giới. Do vậy, Inđônêxia đã buộc phải
phân phối cô-ta xuất khẩu. Hiện nay, họ chỉ được phép xuất
khẩu một số lượng nhất định cho mỗi loại san hô và chỉ tiêu
này phải được uỷ ban khoa học thông báo hằng năm và cấp
giấy phép. Mỗi năm chỉ tiêu xuất khẩu này được xem xét và
hầu như đều giảm mức xuất khẩu đối với mỗi loại san hô.
Ngoài ra, kể từ năm 1999, Liên minh Châu Âu (EU) đã ban
hành lệnh cấm nhập khẩu một số loài san hô nhất định, điển
hình là loài Catalaphyllia jardinei, Cynarina lacrimalis,
Menenzophyllia turbida và Trachyphyllia radiata, nhằm tránh
cho những loại san hô này bị khai thác quá mức.
Trước tình trạng cầu tăng còn cung lại giảm, công ty SA
Amblard đã quyết định thành lập trang trại gây giống san hô
đầu tiên ở Inđônêxia. Bắt đầu từ năm 1998, SA Amblard đã
phát triển kỹ thuật nuôi trồng san hô dưới tên gọi Lombok
Frags. Tuy nhiên, kỹ thuật mới này mới chỉ được áp dụng rất
ít trên thế giới vì vậy cần phải sáng tạo và nghiên cứu phát
triển kỹ thuật và phương pháp này hơn.
Kỹ thuật nuôi
Ðầu tiên, phải lựa chọn giữa những kỹ thuật cơ bản. Kỹ thuật
điện phân là một kỹ thuật đầy hứa hẹn nhưng lại đòi hỏi chi
phí cao. Nuôi trong bể cũng rất tốn kém. Một lựa chọn khác
là nuôi ngoài biển. Phương pháp này tuy ít tốn kém nhưng là
phương pháp tự nhiên. Với mong muốn bảo vệ môi trường,
SA Amblard đã lựa chọn phương pháp nuôi ở biển, hy vọng
phương pháp này sẽ giúp ích cho những người làm nghề khai
thác san hô. Nếu như một ngày nào đó việc khai thác san hô
tự nhiên bị cấm thì họ sẽ dựa vào nguồn san hô nuôi này. Kỹ
thuật nuôi san hô trên biển phụ thuộc rất nhiều vào những
người thu hoạch. Vì vậy, công ty SA Amblard đã phát triển
một kỹ thuật giúp người nông dân tự tiếp nhận và quản lý
vùng nuôi san hô của mình. Họ đã chế tạo nên những giá thể
và đá nhân tạo, kiểm tra và theo dõi vùng nuôi. Ngoài ra
phương pháp này cũng tạo ra công ăn việc làm cho nhiều
người không trực tiếp nuôi san hô.
Kỹ thuật cơ bản rất đơn giản, chỉ bao gồm việc lắp đặt các
tấm sàn bằng kim loại trên nền đáy, sau đó đặt giá thể vào và
đặt hoặc gắn những mảnh san hô vào đó. Kỹ thuật này được
áp dụng đầu tiên tại Fiji. Công ty SA Amblard đã cải tiến
thêm và triển khai ở Inđônêxia.
Các tấm sàn
Các tấm sàn được làm bằng những thanh thép hàn lại với
nhau thành khung đỡ, bên trên đặt lưới mạ kẽm. Kích thước
trung bình của một tấm sàn là 2m x 1m x 0.5m. Nó cũng phụ
thuộc vào địa hình vùng nuôi (như diện tích sử dụng, loài tảo
mọc), nền bằng cát hay đá, dòng chảy, độ sâu của vùng nước
v.v (vì chúng có thể làm trôi các giá thể hoặc các mảnh san
hô), và phụ thuộc vào loài san hô nuôi (có một số loài san hô
cần nhiều không gian hơn các loại khác), và số lượng các loài
cá dữ trong vùng (một số loài cá ăn san hô như cá bướm,
Chaetodons, Arothron, cá bò, Balistoides). Kích cỡ của các
tấm sàn cũng phải được tính kỹ lưỡng sao cho dễ sản xuất,
lắp đặt, duy trì và đảm bảo để san hô được chăm sóc trong
điều kiện tốt nhất.
Giá thể
Giá thể được làm từ pozzolana, xi măng và canxi hiđrôxit.
Chất tạo giá thể phải nhỏ, nhẹ, xốp và càng giống với đá san
hô tự nhiên càng tốt. Ðá san hô nhân tạo cũng được làm theo
cách như vậy. Những giá thể này được làm trung hoà trong
vòng vài tháng sau đó mới được đặt trong môi trường nước
biển. Vì vậy, không phải lo lắng về việc các hoá chất
photphat và kim loại nặng có trong giá thể tan ra... làm ảnh
hưởng môi trường biển.
Hình dáng và kích thước của giá thể phải phù hợp với mỗi
loài san hô. Những mẩu san hô giống có kích cỡ khác nhau
tuỳ theo từng loài, do vậy lượng giá thể dùng để cấy san hô
cũng phải có kích cỡ tương ứng. Nhìn chung, có hai loại giá
thể : một loại có đục lỗ đường kính khoảng 1 - 2 cm để đặt
nhánh san hô đứng thẳng được; một loại có rãnh trên bề mặt
để đặt các nhánh san hô nằm ngang. Hai mẫu này đều đã
được cấp bằng sáng chế.
Cấy san hô
Trước khi cấy, nhằm hạn chế tối đa tỷ lệ san hô chết do
stress, giống phải được thuần hoá để thích nghi với môi
trường mới. Quá trình thích nghi tốt nhất là 10 ngày đến 1
tháng tuỳ theo từng loài và điều kiện môi trường. Ví dụ như
loài san hô Acropora sp. sống ở mực nước sâu có thể nhanh
chóng thích nghi với điều kiện sống ở mực nước nông. Nhìn
chung, quá trình này cũng làm cho san hô thay đổi về màu
sắc và cấu trúc...
Quá trình thích nghi này còn giúp tránh được những sai sót
như địa điểm nuôi không phù hợp không phù hợp, hoặc màu
sắc bị biến đổi hoặc phát hiện ra trong vùng nuôi có các loài
cá dữ ăn san hô.
Nên đặt các giá thể để cấy san hô trong môi trường nước
chảy. Sau khi lớp nhựa êpôxi đã khô, các nhánh cắt san hô sẽ
được đặt vào giá thể.
Nếu vùng nuôi ở khu vực hạ triều thì có thể tiến hành trực
tiếp ở dưới nước. Ðối với loại san hô cứng có thể dùng nhựa
êpôxi. Ðối với các loại san hô mềm thì dùng nhựa teflon
trương phình. San hô giống được giữ bằng kẹp nhựa. Khi
cầm các nhánh san hô cắt phải đeo găng tay cao su. Tất cả
các tấm sàn để cấy đều được đánh số và phải vào sổ các mẫu
san hô để giám sát.
Nuôi dưỡng
Kẻ thù chính của san hô nuôi là tảo biển. Khi các giá thể
được đặt trong nước biển, chúng sạch sẽ và không có tảo
bám, sau đó bắt đầu có hiện tượng tảo silic xâm nhập vào
trong giá thể, tiếp theo là tảo lam Cyanobacteria, rêu
Debrasia, Bryopsis và cuối cùng là Lithothamnion và một số
loài rong tảo khác.
Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng ở các vùng nuôi có dòng chảy
càng mạnh, độ sâu càng lớn thì chu trình nuôi càng diễn ra
nhanh. Do đó, sự lựa chọn vùng nuôi là quan trọng để có thể
giảm bớt công chăm sóc. Bởi vì, trong bất kỳ trường hợp nào,
không được làm sạch các giá thể cho tới khi chu trình hoàn
tất, nếu không chúng sẽ bị hỏng và phải làm lại từ đầu.
Ở những khu vực đáy gồ ghề và dòng chảy yếu rất dễ bị
nhiễm tảo lam. Sau khi các chất cặn bã lắng xuống, các tảo
này phát triển rất nhanh, tạo ra một lớp bao phủ các tấm sàn
cũng như gốc san hô, ngăn cản mọi sự phát triển trên giá thể.
Vì thế, cần phải đặt các gốc san hô cách xa nhau để nước có
thể chảy vào được và tránh lắng đọng.
Ðịa điểm nuôi
Ðối với những khu vực xa bờ, cần có tàu lớn để tiến hành
công việc, còn ở những khu vực nước sâu thì cần có thiết bị
lặn. Mỗi một loài san hô có những nhu cầu khác nhau. Cần
phải nuôi trong những địa điểm phù hợp để giữ được màu sắc
và hình dáng hấp dẫn. Có một quy luật chung là càng nhiều
ánh sáng và nước chảy mạnh thì san hô càng phát triển theo
hướng nằm ngang, từ đó có thể tạo ra các kiểu dáng san hô
khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu của Công ty SA
Amblard, đứng về mặt thẩm mỹ cũng như vấn đề chi phí vận
chuyển, những gốc giống san hô có nhiều nhánh được ưa
chuộng hơn từng nhánh nhỏ một.
Loài san hô Acropora tenuis thường mọc trên đỉnh các mô
đá, nơi nước tương đối lặng và nông sẽ phát triển rất nhanh
với các gốc giống nhỏ có nhiều nhánh. Trái lại, loài san hô
Acropora formosa sống trong môi trường nước nông và dòng
chảy mạnh thì mới tạo ra giống nhỏ. Nếu không chúng có xu
hướng mọc thẳng đứng. Trường hợp của loài san hô
Euphyllia parancora thì lại là vấn đề về màu sắc. Trong vùng
nước nông, loài san hô này có xu hướng mất màu xanh lục
vốn có ở độ sâu trên 15 m. Hơn nữa, nếu dòng chảy mạnh thì
loài san hô này sẽ không thể sống được.
Ðể có được các điều kiện thuận lợi nhất cho mỗi loài san hô,
công ty SA Amblard đã tiến hành nuôi san hô ở 2 địa điểm ở
Lombok - Inđônêxia: một điểm vùng rạn san hô có nhiều
nhánh ở mực nước nông (sâu nhất là 8m) và một điểm vùng
rạn hàng rào nơi có ngầm ở các vịnh rộng và sâu (35m).
Lời kết
Có thể thấy rằng nuôi san hô là một lợi ích phù hợp với sinh
thái. Trên thực tế, những địa điểm nuôi cấy san hô đang
nhanh chóng trở thành các vùng rạn nhân tạo với những tập
đoàn san hô phong phú. Hệ sinh thái rạn san hô đang hồi
phục thu hút các loài thuỷ sinh vật tới sinh sống.
Hiện nay, khu sản xuất san hô của công ty SA Amblard
nhanh chóng được coi là một nguồn dự trữ mới của một quốc
gia có nguồn lợi thuỷ sản đang bị huỷ hoại như Inđônêxia.
Ðể duy trì một môi trường biển lành mạnh và luôn bảo tồn
được các loài thuỷ sinh, công ty SA Amblard sẽ tiếp tục phát
triển cách nuôi san hô độc đáo, đồng thời cũng chuẩn bị để
đối đầu với những thách thức mới.