Hà nội là trung tâm kinh tế văn hoá, chính trị và xã hội của cả nước. Để 
đẩy mạnh sự nghiệp “ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ” theo tinh thần của Nghị 
Quyết TW8 , Hà nội cần thực hiện một sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn diện 
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và cơ cấu kinh tế quốc tế trên các 
lĩnh vực. Trong đó vấn đề đầu tư vào các khu công nghiệp ( KCN) giữ một vai 
trò quan trọng, đó là một trong những điêù kiện thuận lợi nhằm thu hút các nhà 
đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Hà nội. Kinh nghiệm của các nước đi 
trước cho thấy việc khai thác thành công loại hình KCN sẽ là những nhịp cầu 
nối nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính 
vì vậy việc làm thế nào để có thể xây dựng và khai thác sử dụng một cách có 
hiệu quả các KCN tại Hà nội đang là điều trăn trở của các nhà quản lý kinh tế vĩ 
mô. Thành công trong lĩnh vực này sẽ nhanh chóng đưa Hà nôi không chỉ là một 
trung tâm kinh tế lớn của cả nước mà còn mở cửa , bước ra hoà nhập một cách 
bình đẳng với các thành phố khác trong khu vực và trên toàn thế giới.
Hiện nay Hà nội có 05 khu công nghiệp tập trung với tổng diện tích lên 
tới 765 ha hứa hẹn một khu vực sản xuất rộng lớn, có chất lượng cao. Thế nhưug 
các dự án đầu tư sản xuất tại KCN tại Hà nội vẫn chỉ là những con số rất khiêm 
tốn, các doanh nghiệp trong và ngoài nước vẫn còn do dự trong quá trình thăm 
dò tình hình trước khi đầu tư vào đây. Chính vì vậy qua khảo sát và tìm hiểu tôi 
lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai 
thác sử dụng các KCN tại Hà nội”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là dùng 
những lý luận cơ bản vận dụng để giải quyết vấn đề : "Làm thế nào để đẩy 
nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà 
Nội?"
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 123 trang
123 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Luận văn 
Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá 
trình xây dựng và khai thác sử dụng 
các KCN tại Hà nội 
2 
Phần mở đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
 Hà nội là trung tâm kinh tế văn hoá, chính trị và xã hội của cả nước. Để 
đẩy mạnh sự nghiệp “ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ” theo tinh thần của Nghị 
Quyết TW8 , Hà nội cần thực hiện một sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn diện 
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và cơ cấu kinh tế quốc tế trên các 
lĩnh vực. Trong đó vấn đề đầu tư vào các khu công nghiệp ( KCN) giữ một vai 
trò quan trọng, đó là một trong những điêù kiện thuận lợi nhằm thu hút các nhà 
đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Hà nội. Kinh nghiệm của các nước đi 
trước cho thấy việc khai thác thành công loại hình KCN sẽ là những nhịp cầu 
nối nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính 
vì vậy việc làm thế nào để có thể xây dựng và khai thác sử dụng một cách có 
hiệu quả các KCN tại Hà nội đang là điều trăn trở của các nhà quản lý kinh tế vĩ 
mô. Thành công trong lĩnh vực này sẽ nhanh chóng đưa Hà nôi không chỉ là một 
trung tâm kinh tế lớn của cả nước mà còn mở cửa , bước ra hoà nhập một cách 
bình đẳng với các thành phố khác trong khu vực và trên toàn thế giới. 
 Hiện nay Hà nội có 05 khu công nghiệp tập trung với tổng diện tích lên 
tới 765 ha hứa hẹn một khu vực sản xuất rộng lớn, có chất lượng cao. Thế nhưug 
các dự án đầu tư sản xuất tại KCN tại Hà nội vẫn chỉ là những con số rất khiêm 
tốn, các doanh nghiệp trong và ngoài nước vẫn còn do dự trong quá trình thăm 
dò tình hình trước khi đầu tư vào đây. Chính vì vậy qua khảo sát và tìm hiểu tôi 
lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai 
thác sử dụng các KCN tại Hà nội”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là dùng 
những lý luận cơ bản vận dụng để giải quyết vấn đề : "Làm thế nào để đẩy 
nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà 
Nội?" 
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài . 
 Dùng những phương pháp lý luận cơ bản vận dụng để giải quyết vấn đề : 
" Làm thế nào đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công 
nghiệp tại Hà nội . " 
3 
 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
- Đối tượng : Nghiên cứu ở các khu công nghiệp. 
- Phạm vi : Nghiên cứu tại khu vực Hà Nội. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch 
sử trong việc giải quyết các vấn đề của đề tài, trong đó chủ yếu dựa vào phương 
pháp điều tra xã hội học. 
5. Những đóng góp khoa học của luận án 
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về khu công nghiệp 
- Khái quát những kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp của các nước 
trong khu vực và trên thế giới, qua đó rút ra bài học cho Việt Nam. 
- Đánh giá thực trạng của các khu công nghiệp tại Hà Nội mặt mạnh cũng 
như mặt yếu. 
- Đề xuất ý kiến của mình về quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm 
đẩy nhanh quá trình xaay dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà 
Nội. 
6. Kết cấu của luận án . 
Phần mở đầu 
Chương I : Một số lý luận về khu công nghiệp . 
Chương II : Thực trạng của việc xây dựng và khai thác sử dụng của các khu 
công nghiệp tại Hà nội trong thời gian qua . 
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai 
thác sử dụng các khu công nghịêp tại Hà nội . 
Kết luận 
Tài liệu tham khảo 
4 
Chương I 
Những lý luận cơ bản về Khu Công Nghiệp 
1.1 Khái quát chung về khu công nghiệp ( KCN ) 
1.1.1 Khái niệm về KCN ( Industrial Zone ) 
 Hình thức đầu tư vào KCN còn gọi là KCN tập trung mới xuất hiện ở Việt 
nam sau khi chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo hình thức khu chế xuất . 
Khu công nghiệp là một lãnh địa được phân chia và phát triển có hệ thống theo 
một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ 
tầng, phương tiện công cộng phù hợp với sự phát triển của một liên hiệp các 
ngành công nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh 
doanh. 
 ở Việt Nam, theo Điều 2 “Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu 
công nghệ cao ”, được Chính Phủ ban hành năm 1997 có quy định: 
 Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên 
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, 
có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ 
tướng Chính Phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh 
nghiệp chế xuất. 
 1.1.2 Đặc điểm cơ bản của khu công nghiệp. 
 Khu công nghiệp là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn 
gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng 
lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. Khu công nghiệp có những đặc điểm chính 
sau đây: 
 Khu công nghiệp có chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi nhằm thu hút vốn 
đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các nhà 
5 
đầu tư nước ngoài sử dụng những phạm vi đất đai nhất định trong khu để thành 
lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ 
tục xin phép và thuế đất (giảm hoặc miễn thuế). 
 Nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ nước ngoài hay các 
tổ chức, cá nhân trong nước. ở các nước, Chính Phủ thường bỏ vốn xây dựng cơ 
sở hạ tầng như san lấp mặt bằng, làm đường giao thông... ở Việt Nam, Nhà nước 
không có đủ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng cơ 
sở hạ tầng khu công nghiệp được hiểu là tiến hành kêu gọi vốn đầu tư nước 
ngoài và trong nước kể cả xây dựng cơ sở hạ tầng. 
Sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp dành chủ 
yếu cho thị trường thế giới, đối tượng chủ yếu là phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên 
để tăng thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và 
hàng hóa tiêu dùng, các nhà sản xuất trong khu công nghiệp rất quan tâm đến 
việc sản xuất hàng hoá có chất lượng cao với mục đích thay thế hàng nhập khẩu. 
 Mọi hoạt động kinh tế trong khu công nghiệp trực tiếp chịu sự chi phối 
của cơ chế thị trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ chế quản 
lý kinh tế trong khu công nghiệp lấy điều tiết của thị trường làm chính. 
 Khu công nghiệp có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn là một 
vương quốc nhỏ trong một vương quốc như khu chế xuất. Các chế độ quản lý 
hành chính, các quy định liên quan đến ra, vào khu công nghiệp và quan hệ với 
doanh nghiệp bên ngoài sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong khu công nghiệp sẽ là 
các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước tiến hành theo các 
điều kiện bình đẳng. 
 Khu công nghiệp là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành 
phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh nghiệp 
có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh, 
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và cả doanh 
nghiệp 100% vốn trong nước. 
6 
Ra đời cùng với loại hình khu chế xuất, khu công nghiệp cũng sớm gặt hái 
được nhiều thành công ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt là các nước đang phát 
triển. 
1.1.3. Phân biệt giữa khu chế xuất và khu công nghiệp. 
 1.1.3.1. Khái niệm khu chế xuất ( KCX ) 
 Khu chế xuất là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Anh là “Export 
Processing Zone”. Xung quanh khái niệm chung này cho đến nay có nhiều quan 
niệm cụ thể khác nhau với nhiều định nghĩa tương ứng. Thông thường nội hàm 
của khái niệm này thường thay đổi tùy theo thời gian và không gian cụ thể. Cho 
đến nay các nhà kinh tế học còn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm khu 
chế xuất. 
ở Việt Nam, khu chế xuất thường được hiểu theo nghĩa hẹp, theo đó, “Khu 
chế xuất là một khu vực công nghiệp tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và 
thực hiện các dịch vụ liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất là 
khu khép kín, có ranh giới địa lý được xác định trong quyết định thành lập khu 
chế xuất, nhưng biệt lập với các vùng lãnh thổ ngoài khu chế xuất bằng một hệ 
thống tường rào. Khu chế xuất được hưởng một quy chế quản lý riêng quy định 
tại Quy chế khu chế xuất " 
 Như vậy, về cơ bản khu chế xuất là khu kinh tế tự do. ở đó, các xí nghiệp 
công nghiệp được tổ chức ra để chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Thông thường, 
nước chủ nhà đứng ra xây dựng các cơ sở hạ tầng của khu chế xuất, xây dựng 
công trình sản xuất và phục vụ đời sống ở đây, sau đó kêu gọi các nhà đầu tư 
nước ngoài mang vốn, thiết bị, nguyên vật liệu từ nước ngoài vào và thuê nhân 
công của nước chủ nhà tổ chức thành lập khu chế xuất, tiến hành sản xuất hàng 
hoá để bán trên thị trường thế giới. Các mặt hàng dưới dạng máy móc, thiết bị, 
nguyên liệu nhập khẩu vào khu chế xuất và hàng hoá xuất khẩu từ khu chế xuất 
ra thị trường thế giới đều được miễn thuế. Tuy nhiên, ở một số khu chế xuất, 
7 
cũng có hoạt động kinh doanh mua bán lại công nghệ, máy móc, thiết bị, nguyên 
vật liệu trong nội bộ khu chế xuất hoặc giữa các khu chế xuất với nhau và việc 
bán hàng hoá do khu chế xuất sản xuất ra trên thị trường nước chủ nhà. Chính vì 
vậy, nó được gọi là khu chế biến xuất khẩu (hay còn gọi là khu chế xuất). Tuy 
nhiên, còn có một số tên gọi khác như: Khu mậu dịch tự do (Malaysia), đặc khu 
kinh tế (Trung Quốc), khu chế xuất tự do (Hàn Quốc)... Mặc dù cách gọi tên cụ 
thể là rất khác nhau, nhưng nhìn chung ở các khu vực này chủ yếu là các hoạt 
động sản xuất và chế biến còn hoạt động mua bán thì rất ít hoặc không thấy . 
 1.1.3.2. Phân biệt giữa khu công nghiệp và khu chế xuất 
 Điểm giống nhau 
 Khu công nghiệp và khu chế xuất đều là những địa bàn sản xuất công 
nghiệp gồm nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới 
pháp lý riêng, có ban quản lý riêng do Chính Phủ thành lập. Về cơ sở hạ tầng, 
khu công nghiệp, khu chế xuất đều được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ 
thuật hiện dại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các 
doanh nghiệp công nghiệp. 
Về cơ cấu ngành, khu công nghiệp, khu chế xuất đều gồm các ngành truyền 
thống như nông nghiệp, công nghiệp, thuỷ hải sản... mà trong nước có lợi thế so 
sánh và các ngành công nghiệp mới như điện tử, lắp ráp... 
 Điểm khác nhau 
 Khu công nghiệp có phạm vi hoạt động rộng hơn khu chế xuất, nó không 
chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà 
còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu 
và tiêu thụ trong nước. 
 Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào khu công nghiệp, 
khác với khu chế xuất chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu đãi 
từ phía Chính Phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong khu công 
8 
nghiệp chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp 
này sẽ được hưởng chế độ ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng sẽ được hưởng 
ưu đãi như trong khu công nghiệp. 
 Khu chế xuất là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất 
khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan hệ 
ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường 
nước ngoài. Khu chế xuất là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ khu chế 
xuất ra nước ngoài và từ nước ngoài vào khu chế xuất không phải chịu thuế xuất 
nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các 
doanh nghiệp khu công nghiệp với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ 
doanh nghiệp chế xuất trong khu công nghiệp được hưởng ưu đãi như doanh 
nghiệp trong khu chế xuất). Khu công nghiệp không phải là khu thương mại tự 
do mà là khu sản xuất tập trung. 
 Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp khu chế xuất được hưởng thuế thu nhập 
10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất; nộp 15% và 
miễn 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ. Còn doanh nghiệp khu công nghiệp 
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% 
sản phẩm trong 2 năm; 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm 
và trong 2 năm. 
 Đối với nước sở tại, thì khu chế xuất có nhiều mặt lợi hơn so với khu công 
nghiệp. Điều này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây: 
+ Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa 
nên nhìn chung là không cạnh tranh với nền sản xuất trong nước. 
+ Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại, 
nguồn ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của khu 
chế xuất . 
+ Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ 
trương xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu. 
9 
Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là khó 
khăn đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ chức 
sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều kiện 
cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các khó khăn trên mà các nhà đầu tư nước 
ngoài thường quan tâm đến hình thức khu công nghiệp, nhằm tận dụng lợi thế về 
thị trường nội địa. Do đó, việc xây dựng thành công các khu chế xuất thường 
gặp khó khăn hơn là khu công nghiệp. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng 
mô hình khu công nghiệp là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy 
được một vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều khu công nghiệp hoạt động 
sẽ có hàng nghìn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài 
đầu tư. Điều này sẽ tạo ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị 
trường nội địa. 
Để khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống 
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, 
ưu đãi nhiều hơn cho khu chế xuất, làm cho nó có đủ sức hấp dẫn mạnh hơn đối 
với các nhà đầu tư so với khu công nghiệp. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các 
khu công nghiệp và khu chế xuất là không ít khó khăn nhưng việc kêu gọi các 
doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một 
khu chế xuất hay khu công nghiệp phụ thuộc nhiều vào chất lượng của các dự án 
đã thu hút được. 
1.1.4. Vai trò của các KCN 
Với chức năng là những hạt nhân số một, những đòn bẩy của các vành đai 
công nghiệp, các hành lang hay tam giác tăng trưởng kinh tế của cả nước, khu 
công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế 
quốc dân. 
10 
1.1.4. 1. Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ 
Sau chiến tranh thứ hai, nhiều quốc gia đã giành được độc lập dân tộc do 
không muốn lệ thuộc vào chính quốc, đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá- 
hiện đại hoá nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế, họ 
thường vấp phải vấn đề thiếu hụt ngoại tệ nghiêm trọng, khả năng tích luỹ bên 
trong hầu như chưa có. Kết quả là họ phải chuyển hướng chiến lược từ công 
nghiệp hoá hướng nội sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Vì 
thế, một trong những biện pháp hiệu quả đối với các nước này là áp dụng mô 
hình khu công nghiệp và khu chế xuất để thu hút các ngành sản xuất hàng xuất 
khẩu và thu ngoại tệ. Thực tế ở nhiều nước xuất khẩu , hàng sản xuất ra từ các 
khu công nghiệp chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số lượng hàng hoá xuất khẩu 
của nước đó. Trong giai đoạn đầu hoạt động của các khu công nghiệp , mục tiêu 
tăng thu ngoại tệ của các khu công nghiệp nhìn chung không đạt được, vì các 
doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu để nhập khẩu công 
nghệ, thiết bị tiên tiến. ở đây cái lợi là nhập khẩu nhưng không mất ngoại tệ. 
1.1.4.2. Thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài 
Với qui chế quản lý và hệ thống chính sách ưu đãi, các khu công nghiệp sẽ 
tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh, thuận lợi; có sức hấp dẫn đối với các 
nhà đầu tư nước ngoài; từ đó giúp cho nước chủ nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp 
cận vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, học được phong cách quản lý hiện đại. 
Hơn thế nữa, việc phát triển khu công nghiệp cũng phù hợp với chiến lược của 
các công ty đa quốc gia (TNCs) trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ 
sở tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận, tranh thủ thuế quan ưu đãi từ phía nước chủ 
nhà, khai thác thị trường rộng lớn ở các nước đang phát triển. Chính vì vậy mà 
số vốn đầu tư vào các địa bàn này không ngừng tăng lên. Theo thống kê của 
Ngân hàng thế giới (WB), các dự án thực hiện trong khu công nghiệp hầu hết do 
các nhà đầu tư nước ngoài hoặc do liên doanh với nước ngoài thực hiện (khoảng 
43% các dự án do đầu tư trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước 
11 
ngoài, 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Do vậy, khu công nghiệp 
đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ví dụ, 
ở Đài Loan và Malaixia trong những năm đầu phát triển, khu công nghiệp đã 
thu hút khoảng 60% số vốn FDI. 
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với thuận lợi về vị trí, ưu đãi 
về chính sách và cơ chế, khu công nghiệp, khu chế xuất còn khuyến khích thu 
hút các nhà đầu tư trong nước - một nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng có ý 
nghĩa rất quan trọng và cũng là nguồn vốn rất lớn còn chưa được khai thác và sử 
dụng một cách xứng đáng. Khu công nghiệp sẽ tạo môi trường và cơ hội phát 
huy năng lực về vốn cũng như sản xuất kinh doanh trong cùng một điều kiện ưu 
đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua việc liên doanh, liên kết, các 
doanh nghiệp trong nước có điều kiện và cơ hội để tiếp thu kinh nghiệm quản lý, 
trình độ điều hành sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại của 
người nước ngoài, bồi dưỡng nhân tài, thử các phương án cải cách để tiến dần 
đến trình độ thế giới. 
1.1.4.3. Tạo công ăn việc làm 
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tình trạng phổ biến ở các nước kém 
phát triển cũng như các nước đang phát triển là dân số gia tăng hết sức nhanh 
chóng, song tốc độ tăng trưởng kinh tế lại rất chậm, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư thấp. 
Tình trạng đó dẫn tới hậu quả tất yếu là thiếu chỗ làm việc, nạn thất nghiệp ngày 
càng gia tăng, trở thành sức ép lớn đối với chính phủ. Để giải quyết vấn đề này, 
Chính Phủ các nước muốn tận dụng các khu công nghiệp để giải quyết việc làm, 
tạo thu nhập cho người lao động. Điều này có thể làm được vì các chủ đầu tư 
nước ngoài cũng muốn sử dụng nguồn lao dộng dồi dào và rất rẻ của nước chủ 
nhà để tăng thêm lợi nhuận. Tuỳ thuộc vào từng loại ngành nghề mà có lao động 
ở các trình độ khác nhau. Ngành nghề càng đa dạng càng thu hút được nhiều lao 
động nhàn rỗi. Ngoài một bộ phận được đào tạo, có một tỉ lệ lao động đáng kể là 
lao động phụ nữ, trẻ, chưa lập gia đình, không có tay nghề và từ vùng nông thôn 
12 
ra làm việc. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng thế giới, đến nay các khu công 
nghiệp đã thu hút được 30 triệu lao động so với giữa thập kỷ 80 chỉ là 500.000 
lao động, trong đó, châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất nhờ phát triển loại 
hình này. 
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về việc làm và thu nhập của công 
nhân làm việc trong các khu công nghiệp . Đó là họ không được nắm giữ các 
cương vị chủ cốt như tổng giám đốc và thủ quỹ mà chỉ nắm giữ các cương vị 
quản lý trung gian, thiết kế chế tạo... Tiền lương của công nhân làm việc cho các 
khu công nghiệp thường thấp hơn rất nhiều so với tiền lương trả cho công nhân 
ở các nước phát triển khi cùng làm một công việc tương tự. Trong các khu công 
nghiệp , nhất là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì hầu như không có tổ 
chức công đoàn bảo vệ quyền lợi công nhân hoặc nếu có thì hoạt động kém hiệu 
quả . Song nếu so sánh tiền công giữa công nhân làm việc trong KCN so với 
công nhân làm việc ngoài KCN thì mức lương của công nhân làm việc trong 
KCN vẫn cao hơn. Ngoài ra họ còn được hưởng những khoản phụ cấp ngoài 
lương khác như phụ cấp ăn trưa và có phương tiện đưa đón... Như vậy, về mặt 
công ăn, việc làm và thu nhập, khu công nghiệp đã mang lại lợi ích rõ rệt cho 
nước chủ nhà. 
1.1.4.4 Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý 
hiện đại 
Sau khi giành được độc lập, hầu hết các nướ