Luận văn Áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy theo chuẩn kiến thức kỹ năng môn lịch sử cấp trung học cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số

Trong dạy học ngày nay, việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng là một trong những biện pháp góp phần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều, phát huy tính tích cực, sáng tạo, hợp tác, giảm thời gian lí thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, gắn bó chặt chẽ giữa học lí thuyết và thực hành, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.

doc33 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy theo chuẩn kiến thức kỹ năng môn lịch sử cấp trung học cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Đề tài: ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG DẠY THEO CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG MÔN LỊCH SỬ CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ I. TÊN ĐỀ TÀI “ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG DẠY THEO CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG MÔN LỊCH SỬ CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ” II. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong dạy học ngày nay, việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng là một trong những biện pháp góp phần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều, phát huy tính tích cực, sáng tạo, hợp tác, giảm thời gian lí thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, gắn bó chặt chẽ giữa học lí thuyết và thực hành, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. Quan điểm chủ đạo trong chương trình lịch sử phổ thông nói chung, ở trường trung học cơ sở nói riêng là xuất phát từ nội dung, chức năng, nhiệm vụ và đặc trưng bộ môn, từ đặc điểm của quá trình nhận thức quá khứ của học sinh mà sử dụng những phương pháp, phương tiện, hình thức dạy học phù hợp, nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh đã được đặt ra từ những năm đầu của thập kỉ 60 của thế kỉ XX. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Tuy nhiên, việc dạy lịch sử trong nhiều trường trung học cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số còn chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu thi cử, "chạy theo thành tích" học để thi, dạy để thi, đa số giáo viên ngại áp dụng phương pháp mới do nhiều rào cản tác động như lượng kiến thức và thời gian truyền đạt, cơ sở vật chất của nhà trường còn hạn chế, năng lực nhận thức của học sinh còn chậm, bất đồng ngôn ngữ, hoàn cảnh của địa phương (kinh tế khó khăn, giao lưu văn hóa, thiếu thông tin...). Vì vậy, làm thế nào để áp dụng phương pháp dạy học tích cực theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử cấp trung học cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số là vấn đề cần thiết. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề nêu trên tôi xin đưa ra một số phương pháp dạy học tích cực môn lịch sử, một số ví dụ về việc lập kế hoạch bài học, cách kiểm tra đánh giá môn lịch sử ở trường trung học cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số để đồng nghiệp tham khảo, áp dụng nhằm góp từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. III. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI có đoạn viết "Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội". Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới giáo dục nói chung và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường trung học nói riêng. Vấn đề này đã được đề cập nhiều lần trong các văn kiện đại hội Đảng, luật giáo dục. Đặc biệt, văn bản số 242- KL/TW ngày 15/4/2009 thông báo kết luận của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 2 (Khóa VIII) chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều, phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm thời gian lí thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, giáo viên; gắn bó chặt chẽ giữa học lí thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống". Văn bản số 5358/BGDĐT- GDTrH về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học 2011- 2012 nêu rõ "Tổ chức dạy học phân hóa theo năng lực của học sinh dựa theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông giáo viên căn cứ vào hướng dẫn thực hiện chương trình và điều chỉnh nội dung dạy học của Bộ giáo dục đào tạo để sử dụng hợp lí sách giáo khoa khi giảng bài trên lớp, chủ động thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lí hoạt động của giáo viên và học sinh; khắc phục lối dạy học thuần túy đọc- chép; chú trọng tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân và theo nhóm hợp lí; rèn luyện kĩ năng tự học, tạo điều kiện cho học sinh tự nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, phát huy tính tích cực hứng thú trong học tập của học sinh và vai trò chủ đạo của giáo viên trong tổ chức quá trình dạy học; xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí, phù hợp với các đối tượng, tập trung vào trọng tâm, tránh nặng nề quá tải; bồi dưỡng năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng sáng tạo kiến thức đã học, tránh ghi nhớ máy móc, không nắm vững bản chất", " Đối với các môn ngữ văn, lịch sử, địa lí cần tiếp tục đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng đặt câu hỏi mở, đòi hỏi học sinh phải vận dụng tổng hợp kiến thức đã được học, hạn chế học sinh chỉ ghi nhớ máy móc, không nắm vững kiến thức, kĩ năng môn học". IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN Vấn đề áp dụng dạy học tích cực vào giảng dạy theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử cấp trung học cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số đã được đặt ra trong những năm gần đây. Nhưng nhìn chung việc áp dụng phương pháp mới của giáo viên vẫn còn hời hợt, đa số giáo viên chưa biết kế thừa, phát huy những ưu điểm, khắc phục nhược điểm của các phương pháp dạy học truyền thống và cập nhật các phương pháp dạy học tích cực sao cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy học của nhà trường, địa phương. Giáo viên ngại áp dụng phương pháp mới vì phải chuẩn bị kế hoạch bài học, đồ dùng dạy học, tốn nhiều thời gian. Do ở vùng khó khăn cơ sở vật chất còn thiếu thốn, phần lớn giáo viên phải tự làm đồ dùng dạy học, trình độ nhận thức của học sinh quá yếu, thụ động, kĩ năng tự học, tự tìm hiểu của học sinh trước khi đến lớp như đọc trước bài mới, học bài cũ...chưa được chuẩn bị kĩ, đa số là con em dân tộc thiểu số, bất đồng ngôn ngữ, năng lực tư duy kém là một trong những rào cản để đổi mới phương dạy học theo hướng dạy học tích cực. Việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử cấp trung học cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số tuy đã được áp dụng nhưng chỉ mang tính hình thức là chủ yếu. Do đó, việc dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, thông báo kiến thức mang tính đồng loạt, thiên về lí thuyết, xa rời thực tiễn, tập trung ôn luyện kiến thức đáp ứng kiểm tra thi cử, chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, phát triển tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề... cho người học vì thế chất lượng giáo dục chưa cao. Qua thống kê chất lượng môn lịch sử ở trường trung học cơ sở bán trú cụm xã Lý Tự Trọng năm học 2009- 2010 và 2010- 2011 là trường thuộc vùng dân tộc thiểu số cho thấy mặt dù chất lượng dạy học môn lịch sử có tăng lên nhưng vẫn còn thấp: Năm học SLHS Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 2009- 2010 728 3 0,4 153 21,0 542 74,5 30 4,1 2010- 2011 709 7 1,0 170 24,0 514 72,5 17 2,4 1 0,1 Ngoài chất lượng học tập như trên kĩ năng diễn đạt vấn đề của học sinh còn quá yếu. Học sinh mau quên kiến thức cũ, học sinh chưa làm chủ, tự lực chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống chưa tốt. Hiện nay, điều kiện cơ sở vật chất( trường, lớp, đồ dùng dạy học, các phương tiện thông tin...) ở vùng dân tộc thiểu số đang dần dần được khắc phục. Lượng kiến thức và thời gian dạy học trong một tiết dạy cũng đã được điều chỉnh cho phù hợp, đa số giáo viên đều đạt chuẩn hoặc trên chuẩn... đây là những thuận lợi lớn để giáo viên áp dụng mạnh mẽ, có hiệu quả hơn nữa phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử cấp trung học cơ sở. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU A. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN DẠY MÔN LỊCH SỬ: Thứ nhất: Giáo viên bộ môn phải thực hiện đúng, nắm rõ hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử cấp trung học cơ sở của Bộ giáo dục và đào tạo và hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học môn lịch sử cấp trung học cơ sở của Bộ giáo dục và đào tạo. Thứ hai: Phải hiểu định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử là không phải loại bỏ các phương pháp dạy học lịch sử truyền thống mà là kế thừa những tinh hoa, giá trị của phương pháp dạy học lịch sử truyền thống và vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới trong một giờ học lịch sử sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học, phù hợp với đối tượng học sinh. Thứ ba: Phải nắm vững quy trình thực hiện việc vận dụng các phương pháp dạy học môn lịch sử theo định hướng đổi mới như phương pháp trực quan, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tình huống, phương pháp vấn đáp, phương pháp thảo luận nhóm, sơ đồ tư duy, ... Thứ tư: Phải nắm vững định hướng đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh trong chương trình lịch sử ở trường trung học cơ sở, cách đánh giá không gây áp lực nặng nề, tránh kiểm tra theo học thuộc lòng, ghi nhớ máy móc, phải nắm được các mức độ nhận thức của học sinh như nhận biết, thông hiểu, vận dụng để ra đề kiểm tra trong đánh giá. Thứ năm: Giáo viên bộ môn cần tìm hiểu đối tượng học sinh lớp mình dạy để lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp hay nói cách khác là để "Dạy học vừa sức, đúng đối tượng học sinh, tiết học nhẹ nhàng, hiệu quả". Thứ sáu: Giáo viên bộ môn cần phải có tâm huyết, có sự đầu tư trong việc lập kế hoạch bài học, tự làm đồ dùng dạy học. Thứ bảy: Giáo viên bộ môn cần hình thành thói quen tự học, phương pháp tự học cho học sinh ở trên lớp cũng như ở nhà bằng cách nêu câu hỏi, ra bài tập, hướng dẫn sử dụng sách giáo khoa, tài liệu tham khảo. Giúp học sinh ghi nhớ theo ghi nhớ lôgíc, ghi nhớ tích cực trong quá trình học tập bằng cách sử dụng sơ đồ tư duy. B. ĐỐI VỚI HỌC SINH. - Hình thành thói quen tự học lịch sử (tự học ở trên lớp, tự học ở nhà). - Thay đổi thói quen học tủ ( học để thi), học lệch, học vẹt. Nghĩa là hạn chế việc học tái hiện lại tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. - Cần có đủ sách giáo khoa, vở ghi, bút. - Học sinh cần tự học sách giáo khoa theo các bước: + Đọc và tự ghi tóm tắt, ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết. + Ghi lại những nội dung khó hiểu, đặc biệt là những thuật ngữ, khái niệm lịch sử. + Hoàn thành bài tập câu hỏi trong sách giáo khoa. + Tự làm việc với bản đồ, tranh ảnh. + Tìm đọc các tài liệu tham khảo. + Chổ nào chưa hiểu thì yêu cầu giáo viên giúp đỡ. - Học sinh ghi bài giảng trên lớp: + Ghi dàn bài bài học của giáo viên và đối chiếu khi theo dõi sách giáo khoa để ghi những sự kiện chính. + Vẽ lại những hình vẽ giáo viên trình bày trên bảng đen. + Ghi lại các số liệu, niên đại quan trọng, lập niên biểu, đồ thị. + Ghi các tài liệu lịch sử gốc, câu nói nổi tiếng. + Ghi từ mới, các thuật ngữ. + Ghi lời hướng dẫn, dặn dò của giáo viên. C. MỘT VÀI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC MÔN LỊCH SỬ. 1. Phương pháp trực quan. a) Bản chất. Phương pháp dạy học trực quan (hay còn gọi là phương pháp trình bày trực quan) là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Phương pháp dạy học trực quan thể hiện dưới hai hình thức minh họa và trình bày : - Minh họa thường là trình bày những đồ dùng trực quan như bản mẫu, bản đồ, bức tranh, tranh chân dung, hình vẽ trên bảngnhằm bổ sung cho nội dung bài học. - Trình bày là cơ sở, là điểm xuất phát cho quá trình nhận thức học tập của học sinh, là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Thông qua sự trình bày của giáo viên mà học sinh không chỉ lĩnh hội dễ dàng tri thức mà còn giúp học sinh học tập được những thao tác mẫu của giáo viên, từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo. b) Quy trình thực hiện - Giáo viên treo đồ dùng trực quan có tính chất minh họa hoặc giới thiệu về các đồ dùng trực quan đó, nêu yêu cầu để định hướng sự quan sát của học sinh. - Giáo viên trình bày các nội dung trong sơ đồ, lược đồ, bản đồ... - Giáo viên yêu cầu một hoặc một số học sinh trình bày lại, giải thích nội dung sơ đồ, biểu đồ, trình bày những gì thu nhận được qua quan sát. - Từ những chi tiết, thông tin thu được từ phương tiện trực quan, giáo viên nêu câu hỏi, yêu cầu học sinh rút ra kết luận khái quát về vấn đề mà phương tiện trực quan cần chuyển tải. c. Ưu điểm. Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình ảnh các khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để học sinh hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là phương tiện có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử, giúp học sinh nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội. Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại vững chắc trong trí nhớ là hình ảnh học sinh thu nhận được bằng trực quan. Vì vậy, cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Khi quan sát bất cứ đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng có thể nêu nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào. Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. Ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mĩ của đồ dùng trực quan cũng rất lớn. Quan sát một bức tranh diễn tả cuộc đấu tranh cách mạng...học sinh sẽ có tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến những anh hùng, chiến sĩ cách mạng, lòng quý trọng lao động và nhân dân, căm thù xâm lược và chiến tranh. d) Nhược điểm. Phương pháp trực quan đòi hỏi nhiều thời gian, giáo viên cần tính toán kĩ cho phù hợp với thời lượng đã quy định. Nếu sử dụng đồ dùng đồ dùng trực quan không khéo sẽ làm phân tán sự chú ý của học sinh, học sinh không lĩnh hội những nội dung chính của bài học. Khi sử dụng đồ dùng trực quan, đặt biệt là khi quan sát tranh ảnhnếu không định hướng cho học sinh quan sát sẽ dễ dẫn đến tình trạng học sinh sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng. e) Một số lưu ý. Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử cần chú ý đến các nguyên tắc sau: - Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ dùng trực quan thích hợp. Vì vậy cần xây dựng một hệ thống đồ dùng trực quan phong phú với từng loại bài lịch sử. - Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan. - Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan của học sinh. - Phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan. - Đảm bảo kết hợp việc trình bày kênh chữ với việc giới thiệu các đồ dùng trực quan, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan (vẽ bản đồ, tường thuật trên bản đồ, miêu tả hiện vật). - Tùy theo yêu cầu của bài học và loại đồ dùng trực quan mà có nhiều cách sử dụng khác nhau. Loại đồ dùng trực quan treo tường được sử dụng nhiều nhất trong dạy học lịch sử hiện nay là bản đồ, lược đồ, sơ đồ, đồ thị,Trước khi sử dụng chúng cần chuẩn bị thật kĩ (nắm nội dung, ý nghĩa của từng loại phục vụ cho nội dung nào của giờ học). Trong khi giảng, cần xác định đúng thời điểm để treo bản đồ. Không nên trêu bảng vì còn dùng để viết, mà nên treo cao ở góc bên phải bảng, nơi có ánh sáng cho tất cả học sinh nhìn thấy rõ. Giáo viên cần đứng bên phải bản đồ, dùng que chỉ các địa điểm cho thật chính xác. - Loại đồ dùng trực quan cỡ nhỏ được sử dụng riêng cho từng học sinh trong giờ học, trong việc tự học ở nhà, giáo viên nên hướng dẫn học sinh sử dụng tốt loại đồ dùng trực quan này: quan sát kĩ, tìm hiểu sâu sắc nội dung, hoàn thành các bài tập, tập vẽ bản đồ. Khi sử dụng tranh, ảnh chân dung các nhân vật lịch sử, giáo viên không nên chú ý nhiều đến miêu tả hình dáng bên ngoài của nhân vật mà nên hướng dẫn học sinh phân tích nội tâm, tài đức, quan điểm thể hiện ở hành động của nhân vật. Tóm lại, trong dạy học học lịch sử ở trường phổ thông, việc kết hợp chặt chẽ giữa lời nói sinh động với sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những điều quan trọng nhất để thực hiện nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. g) Ví dụ. - Ví dụ 1: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh -GV: Treo lược đồ chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 và nêu câu hỏi: Dựa trên cơ sở nào mà Trần Hưng Đạo xác định kế hoạch phản công ? - GV trình bày: Giặc sẽ rút theo hai đường thủy, bộ: quân bộ theo đường Lạng Sơn; quân thủy theo đường sông Bạch Đằng. Vậy Trần Hưng Đạo có kế hoạch gì? - GV cho học sinh xem lược đồ. Hỏi: Vì sao Trần Hưng Đạo đã chọn và chuẩn bị trận địa mai phục ở sông Bạch Đằng? - Yêu cầu học sinh dựa vào lược đồ để trả lời câu hỏi. - HS trả lời: + Tiêu diệt đoàn thuyền lương của giặc. + Giặc lâm vào thế lúng túng. - HS đọc SGK và trả lời: Trần Hưng Đạo quyết định phản công và tiến hành bố trí trận địa mai phục trên sông Bạch Đằng. - Trần Hưng Đạo đã chọn và chuẩn bị trận địa ở sông Bạch Đằng vì: + Tại đây, Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán năm 938. + Địa thế hiểm trở. + Mực nước lên xuống rõ rệt. - Ví dụ 2: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh GV: Yêu cầu học sinh đọc đoạn chữ nhỏ trong SGK nói về vùng đất Hoa Lư. GV: Cho HS quan sát ảnh H. 19 Toàn cảnh cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) GV: Tại sao Đinh Tiên Hoàng đóng đô ở Hoa Lư? - HS: Đọc SGK. -HS: Quan sát. - HS: Suy nghĩ và trả lời. + Là quê hương của Đinh Tiên Hoàng, đất hẹp, nhiều đồi núi nên thuận lợi cho việc phòng thủ. 2. Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề. a) Bản chất. Dạy học nêu vấn đề là một phương pháp dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, nhờ vậy nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực và năng lực sáng tạo, hình thành cơ sở và thế giới quan khoa học cho học sinh. Bản chất của dạy học nêu vấn đề là tạo nên một chuỗi những tình huống có vấn đề và điều khiển hoạt động của học sinh để học sinh tự lực giải quyết vấn đề đó. b) Quy trình thực hiện. Quy trình giải quyết vấn đề gồm các bước: - Nhận biết vấn đề. - Đề xuất giả thuyết. - Lập kế hoạch. - Đánh giá, kết luận, vận dụng. c) Ưu điểm. - Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học vì học sinh phải tiến hành hoạt động trí tuệ, tự lĩnh hội tri thức mới bằng cách giải quyết những vấn đề học tập, nhờ vậy mà đảm bảo tính vững chắc của tri thức. - Với phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề, học sinh có thể thể hiện tính tích cực cao. - Dạy học nêu vấn đề đảm bảo mối tương quan giữa lĩnh hội tri thức một cách sáng tạo và lĩnh hội có tính chất tái hiện khi tăng cường hoạt động nhận thức sáng tạo của học sinh. Chính những đặc điểm này, làm cho dạy học nêu vấn đề khác với dạy học truyền thống ở chổ: nó được xây dựng lại trên cơ sở phát triển tư tưởng, năng lực nhận thức sáng tạo của học sinh, nhờ đó mà giáo viên thực hiện đầy đủ hơn nguyên tắc phát huy tính tích cực, tự lực nhận thức của học sinh. d) Hạn chế. - Phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian, giáo viên cần tính toán kĩ để phù hợp với thời lượng đã quy định. - Xây dựng tình huống có vấn đề phải phù hợp và vừa sức nếu không sẽ không động viên được học sinh tham gia một cách tích cực vào quá trình nhận thức tri thức mới. e) Một số lưu ý. - Dạy học nêu vấn đề không phải chỉ tạo ra những tình huống vấn đề rời rạc mà phải là một hệ thống có vấn đề có tính tuần tự. - Cần phải làm cho học sinh có ý thức rõ vấn đề học tập đó và tổ chức hoạt động nhận thức, nhằm giúp cho học sin