Trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các doanh nghiệp là đáp ứng
tốt nhu cầu của thị trường và đạt được lợi nhuận tối đa. Khi quyết định bất kỳ
một phương án một loại sản phẩm nào trước tiên doanh nghiệp phải tính đến
lượng chi phí sẽ bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó. Ở các doanh
nghiệp sản xuất, khi nói đến chi phí, không thể không nói đến gía thành sản
phẩm vì giá thành sản phẩm là các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng
hoặc đơn vị sản xuất do doanh nghiệp hoàn thành. Nó còn là một chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp, phản ánh trình độ sản xuất tốt hay chưa, sử dụng cho phí tiết
kiệm hay kinh phí. Do đó các doanh nghiệp hết sức quan tâm đến việc giảm
chi phí, hạ gia thành một cách hợp lý vì điều đó tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giảm giá bán, thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm và tăng lợi nhuận .
Xuất phát từ vấn đề đó bằng những kiến thức đã được học và tích luỹ
kết hợp với các tài liệu đọc thêm em xin được trình bày đề tài "Bàn về một
số phương pháp tính giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất hiện nay"
Đề án của em gồm các nội dung sau:
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được chia làm 4 phần
Phần thứ nhât: Những lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Phần thứ hai: Các phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phần thứ ba: Thực trạng áp dụng các phương pháp tính giá thành sản
phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu ở Việt Nam hiện nay
Phần thứ tư: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các phương pháp tính
giá thành sản phẩm.
35 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2700 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bàn về một số phương pháp tính giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Bàn về một số phương pháp
tính giá thành trong các
doanh nghiệp sản xuất hiện
nay
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các doanh nghiệp là đáp ứng
tốt nhu cầu của thị trường và đạt được lợi nhuận tối đa. Khi quyết định bất kỳ
một phương án một loại sản phẩm nào trước tiên doanh nghiệp phải tính đến
lượng chi phí sẽ bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó. Ở các doanh
nghiệp sản xuất, khi nói đến chi phí, không thể không nói đến gía thành sản
phẩm vì giá thành sản phẩm là các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng
hoặc đơn vị sản xuất do doanh nghiệp hoàn thành. Nó còn là một chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp, phản ánh trình độ sản xuất tốt hay chưa, sử dụng cho phí tiết
kiệm hay kinh phí. Do đó các doanh nghiệp hết sức quan tâm đến việc giảm
chi phí, hạ gia thành một cách hợp lý vì điều đó tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giảm giá bán, thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm và tăng lợi nhuận .
Xuất phát từ vấn đề đó bằng những kiến thức đã được học và tích luỹ
kết hợp với các tài liệu đọc thêm em xin được trình bày đề tài "Bàn về một
số phương pháp tính giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất hiện nay"
Đề án của em gồm các nội dung sau:
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được chia làm 4 phần
Phần thứ nhât: Những lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Phần thứ hai: Các phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phần thứ ba: Thực trạng áp dụng các phương pháp tính giá thành sản
phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu ở Việt Nam hiện nay
Phần thứ tư: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các phương pháp tính
giá thành sản phẩm.
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN
XUẤT
I. KHÁI NIỆM, YÊU CẦU QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM HIỆN NAY:
1. Khái niệm chung về giá thành sản phẩm .
1.1. Khái niệm và phân loại giá thành.
1.1.1. Khái niệm giá thành.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh
lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự
chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao
gồm những chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ
phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những
chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa
vào thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị của các tư liệu sản xuất tiêu
dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác liên quan tới việc bù
đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản
ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và
không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tai sản xuất mở rộng.
Như vậy giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các
khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối
lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
1.1.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá
thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét
dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như
trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội và giá thành cá biệt, còn
có khái niệm giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ...
* Phân theo thời điểm tính và nguồn số liệu tính giá thành sản phẩm
- Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh
trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của
kỳ kinh doanh.
- Giá thành định mức: là chỉ tiêu được xác định trước khi bắt đầu sản
xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất được xác định trên cơ sở các định mức về
chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là
ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay
đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá
thành.
- Giá thành thực tế: là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình
sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá
trình sản xuất sản phẩm.
* Phân theo phạm vi phát sinh chi phí.
- Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản
ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm
trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Giá thành sản xuất còn là căn cứ để xác
định giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất.
- Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ)
là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ là cơ sở tính toán lãi trước thuế của
doanh nghiệp.
1.2. Sự cần thiết của kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp sản xuất hiện nay.
Bản chất của giá thành sản phẩm chính là sự chuyển dịch giá trị của các
yếu tố chi phí vào những sản phẩm công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành.
Mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi
các doanh nghiệp phải đảm bảo trang trải mọi chi phí đaàu vào của quá trình
sản xuất và nhất thiết phải có lãi. Giá bán sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào
quy luật cung - cầu, vào sự thoả thuận giữa doanh nghiệp và khách hàng. Do
đó để thu được lợi nhuận cao thì doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở giá thành
sản phẩm để xác định giá bán, giá thành là chi phí sản xuất tính cho một khối
lượng hoặc một đơn vị sản phẩm do doanh nghiệp đã hoàn thành và nó được
biểu hiện bằng tiền.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua những thông tin về giá thành thực
tế của từng loại sản phẩm mà doanh nghiệp có thể phân tích, đánh giá tình
hình thực hiện các định mức, các dự toán chi phí cũng như tình hình sử dụng
tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn của doanh nghiệp và hiệu quả của các dự án,
các giải pháp kinh tế - xã hội - kỹ thuật.
Hơn nữa doanh nghiệp còn dựa vào chỉ tiêu này để xác định kết quả
kinh doanh. Có những thông tin về giá thành sản xuất và giá bán, doanh
nghiệp sẽ đánh giá mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả sử dụng chi phí sản
xuất. Giá thành sản phẩm cũng là căn cứ giúp doanh nghiệp tính toán giá vốn
hàng bán, lãi gộp, từ đó xác định lãi trước thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ngoài ra, giá trị sản phẩm dở dang và thành phẩm còn là những chỉ tiêu
quan trọng của bảng cân đối kế toán, phản ánh tình hình tài sản của doanh
nghiệp. Tính giá thành sản phẩm một cách đúng đắn và trung thực sẽ tạo niềm
tin cho người quan tâm và đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ trách
nhiệm với nhà nước.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải luôn
tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng, đồng thời với việc hạ giá thành sản phẩm. Đây cũng là
trách nhiệm chính của kế toán giá thành. Bằng việc cung cấp các thông tin
liên quan đến giá thành định mức, giá thành sản phẩm thực tế, kế toán giá
thành có thể hỗ trợ công tác hạ giá thành sản phẩm. Đơn giá tiêu chuẩn, ngân
sách linh hoạt và kết hợp kế toán phần hành khách chính là công cụ của kế
toán giá thành.
Bên cạnh chức năng hỗ trợ hạ giá thành sản phẩm, kế toán giá thành
còn có chức năng lập giá, có nghĩa là căn cứ vào giá thành để xác định giá
bán, tỉ lệ chiết khấu bán hàng ... Một trong những căn cứ để doanh nghiệp tính
toán tỷ lệ chiết khấu phù hợp với khách hàng là giá thành sản phẩm trong mối
quan hệ với giá bán. Như vậy, kế toán giá thành cũng góp một phần quan
trọng trong việc ra quyết định của nhà quản trị.
Qua việc tìm hiểu những vai trò của kế toán giá thành đối với mỗi
doanh nghiệp sản xuất, ta khẳng định kế toán giá thành là một khâu trọng tâm
của kế toán. Đây là cơ sở để doanh nghiệp lập một báo cáo trung thực, hợp lý
cũng như cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho nhà quản trị. Nhưng một
hệ thống kế toán không bản thân nó mang lại kết quả đó mà luôn cần có sự
vận dụng hợp lý từ phía doanh nghiệp.
2. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại các
doanh nghiệp hiện nay.
2.1. Yêu cầu và nguyên tắc quản lý.
Để thực hiện tốt chức năng kiểm tra và cung cấp thông tin, tính giá
trong doanh nghiệp nói chung cũng như kế toán giá thành nói riêng phải tuân
thủ yêu cầu chính xác và yêu cầu nhất quán. Yêu cầu chính xác đòi hỏi việc
tính giá phải bảo đảm tính trung thực, phù hợp với giá cả đương thời và phù
hợp với số lượng, chất lượng sản phẩm. Nếu việc tính giá không chính xác,
thông tin do tính giá cung cấp sẽ mất tính xác thực, không đáng tin cậy, ảnh
hưởng đến việc đề ra quyết định kinh doanh. Cũng để thực hiện tốt chức năng
của mình, kế toán giá thành phải đảm bảo yêu cầu thống nhất. Yêu cầu này có
nghĩa là việc tính giá phải thống nhất về phương pháp tính toán giữa các kỳ
khác nhau. Có như vậy, số liệu tính toán ra mới có thể so sánh giữa các thời
kỳvà so sánh với doanh nghiệp khác được.
Ngoài việc tuân thủ các yêu cầu trên kế toán còn phải quán triệt các
nguyên tắc như:
* Nguyên tắc xác định đối tượng và phương pháp tính giá phù hợp.
Đòi hỏi đầu tiên của công việc quản lý là phải xác định đúng đối tượng
tính giá, phù hợp với đặc điểm của công nghệ sản xuất và quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó thì doanh nghiệp phải lựa chọn phương
pháp tính giá thành sản phẩm phù hợp đặc điểm của quá trình sản xuất. đặc
điểm nguyên vật liệu, đặc điểm của sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất.
* Nguyên tắc xác định, phân loại chi phí một cách hợp lý:
Từ nội dung giá thành có thể thấy chi phí là một bộ phận quan trọng
cấu thành nên giá thành sản phẩm. Phân loại, phân bổ chi phí một cách khoa
học nhằm đảm bảo các chỉ tiêu tính giá phản ánh được cơ cấu, phát sinh thực
của chi phí cũng như kiểm soát tìm ra nguyên nhân và phân tích sự biến động
của gía thành sản phẩm.
* Nguyên tắc phải nắm được các cách phân loại giá thành khác
nhau đáp ứng công tác quản lý và hạch toán:
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán, kế hoạch hoá giá thành
và xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét nhiều góc độ khác nhau,
phạm vi tính toán khác nhau. Mỗi cách phân loại đều có tác dụng khác nhau
đối với công tác quản lý, hạch toán kế hoạch. Giá thành sản phẩm có thể phân
loại theo phạm vi phát sinh chi phí hoặc thời điểm và nguồn số liệu tính giá.
2.2. Nhiệm vụ kế toán giá thành:
Với những yêu cầu và nguyên tắc trên, kế toán giá thành cần thực hiện
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
* Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất
sản phẩm của doanh nghiệp để xác định đối tượng và phương pháp tính giá
thành thích hợp.
* Vận dụng phương pháp tính giá thành hợp lý để tính tổng giá thành
và giá thành đơn vị của các đoói tượng tính giá thành theo đúng các khoản
mục quy định và đúng kỳ tính giá thành xác định.
* Cung cấp kịp thời những số liệu, thông tin tổng hợp về các khoản
mục chi phí và giá thành thực tế cho nhà quản trị doanh nghiệp.
* Định kỳ lập báo cáo về giá thành sản phẩm và tham gia phân tích tình
hình thực hiện kế hoạch, đề xuất biện pháp để tiết kiệm chi phí và hạ thấp giá
thành sản phẩm.
II/ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM.
1. Chi phí sản xuất.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình
sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng
gắn liền với sự vận động và tiêuhao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trĩnh. Nói
cách khác quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư
liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời quá trình sản
xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố
trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí
về thù lao lao động, về tư liệu lao động, đối tượng lao động. Ba yếu tố này
cấu thành nên giá thành sản phẩm mới sáng tạo ra. Vì thế sự hình thành nên
các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là yếu tố khách quan,
không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của người sản xuất.
Như vậy, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ hao phí, của lao động vật hoá và hao phí lao động sống cần thiết mà
doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất
định. Ở doanh nghiệp sản xuất, giữa chi phí và chi tiêu là hai phạm vi khác
nhau. Chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêucho quá trìnhma
hàng, quá trình sản xuất, hoạt động văn hoá xã hội của doanh nghiệp.
Thực chất chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn
của doanh nghiệp vào đối tượng tính giá nhất định, nó là vốn mà doanh
nghiệp bỏ ra vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc hiểu rõ chi phí sản xuất
có ý nghĩa quan trọng và cần thiết giúp cho doanh nghiệp tính đúng, tính đủ
chi phí sản xuất vào giá thành, từ đó tìm được biện pháp hạ thấp chi phí và
phát huy tác dụng chi tiêu giá thành trong công tác quản lý, kiểm tra và giám
sát quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí sản xuất là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá mà
doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đế hoạt động sản xuất kinh doanh trong
một thời kỳ nhất định. Còn giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ lao động sống, lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng sản phẩm
hoàn thành. Chúng giống nhau về chất. Chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm đều bao gồm những hao phí về lao động sống, hao phí vật hoá mà
doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình chế biến. Chi phí sản xuất biểu hiện về
mặt hao phí sản xuất, giá thành sản phẩm biểu hiện mặt kết quả của quá trình
sản xuất. Chúng là hai mặt thống nhất của một quá trình.
Tuy nhiên, giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất thường khác nhau về
lượng. Tính vào giá thành sản phẩm chỉ có những chi phí gắn liền với sản
phẩm hay khối lượng công việc đã hoàn thành không kể chi phí đã chi ở kỳ
nào. Do lượng chi phí sản xuất kỳ này chuyển sagn khỳ sau (chi phí sản phẩm
dở dang cuối kỳ) thường không khớp vơí lượng chi phí sản xuất đã chi ra
trong kỳ trước đó (chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ), vì vậy chi phí sản xuất
phát sinh trong kỳ không bằng giá thành sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Trên góc độ biểu hiện bằng tiền, chi phí sản xuất cũng khác với giá
thành sản phẩm. Đặc biệt trong các ngành công nghiệp, giá thành sản phẩm
không bao gồm các chi phí đã chi ra trong kỳ mà trừ chi phí phân bổ dần cho
kỳ sau và cộng thêm các khoản chi phí thực tế chưa phát sinh trong kỳ được
tính trước vào giá thành hoặc cộng thêm chi phí đã chi ra kỳ trước chưa phân
bổ, kết chuyển sang.
PHẦN THỨ HAI:
CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
SẢN XUẤT.
I/ CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM SẢN
XUẤT.
1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Xác định đối tượng trong giá thành chính là việc xác định sản phẩm,
bán sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn
vị. Đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản
xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế
nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Việc xác định đúng đối tượng tính giá thành là
yêu cầu quyết định trong việc tính trung thực và hợp lý của giá thành sản
phẩm. Để tính đúng và đủ giá thành sản phẩm, kế toán phải dựa và đặc điểm
tổ chức, đặc điểm quy trình công nghệ kỹthuật sản xuất sản phẩm, đặc điểm
tổ chức của sản phẩm, yêu cầu, trình độ quản lý và hạch toán của doanh
nghiệp để xác định đối tượng tính giá thành hợp lý.
Như vậy xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm là yếu tốt quyết
định trong việc tính đúng và trung thực giá thành sản phẩm. Đối tượng giá
thành sản phẩm là căn cứ để tính giá thành, các thẻ tính giá thành sản phẩm,
lựa chọn phương pháp tính giá thành quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện
kế hoạch giá thành và tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Kỳ tính giá thành sản phẩm.
Kỳ tính giá thành sản phẩm là thời kỳ mà bộ phận kế toán giá thành cần
tiến hành công việc tính giá thanhf cho các đối tượng tính giá thành. Cũng
như xác định đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thanh sản phẩm tuỳ theo
đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm với chu kỳ sản phẩm mà xác định.
Trong trường hợp mô hình tổ chức sản xuất hàng loạt, chu kỳ ngắn, liên
tục thì kỳ tính giá thành sản phẩm vào thời điểm cuối tháng. Tại thời điểm
này, kế toán tập hợp chi pí và áp dụng những phương pháp tính giá thích hợp
để xác định giá thành thực tế một đơn vị sản phẩm và tổng giá thành thực tế
cho từng đối tượng tính giá thành. Còn trong trường hợp tổ chức sản xuất đơn
chiếc, chu kỳ dài hoặc tổ chức sản xuất theo đơn đặt hàng thì kỳ tính sản
phẩm vào thời điểm sản phẩm hay đơn đặt hàng hoàn thành. Hàng tháng, kế
toán vẫn tiến hành tậpuhợp chi phí sản xuất theo đối tượng. Khi nhân chứng
từ chứng minh sản phẩm, đơn đặt hàng hoàn thành thì kế toán tiến hành
tínhgiá thành thực tế cho đối tượng tính giá thành.
Xác định kỳ tính giá thành cho từng đối tượng thích hợp sẽ giúp cho
doanh nghiệp tổ chức công việc tính giá thànhmột cách khoa học, hợp lý, đảm
bảo cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, và phát huy vai trò kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán.
II/ PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
1. Phương pháp tính giá thành trựctiếp.
Phương pháp này được áp dụng ở loại hình sản xuất giản đonư, loại
hình này có đặc điểm là chu kỳ sản xuất ngắn khối lượng sản phẩm lớn và
mặt hàng sản xuất ít.
- Trường hợp cuối kỳ không có sản phẩm dở dang hoặc có ít hoặc ổn
định thì kế toán không cần đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ, khi đó tổng
giá thành, giá thành đơn vị sản phẩm được tính theo công thức sau đây:
Z = C
z = Z / Q = C / Q
Trong đó: Z là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
z là giá thành đơn vị sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Q là số lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
C là tổng chi phí sản xuất trong kỳ.
- Trường hợp cuối kỳ có nhiều sản phẩm dở dang và không ổn định. Kế
toán phải tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ, khi đó tổng giá thành,
giá thành đơn vị sản phẩm được tính theo công thức sau đây:
Z = Dđầu kỳ + C - Dcuối kỳ
z = Z/Q
Trong đó Dđầu kỳ , Dcuối kỳ là chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ.
2. Phương pháp tính gia thành theo hệ số.
Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà cùng
một quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm cùng sử dụng một loại nguyên vật
liệu, cùng một lượng lao động nhưng kết quả thu được nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là cho toàn bộ quy trình công
nghệ, đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm trong quy trình công nghệ.
Theo phương pháp này kế toán căn cứ vào hệ số tính giá thành của từng
loại sản phẩm tương ứng để quy đổi số sản phẩm khác nhau về sản phẩm gốc
(sản phẩm tiêu chuẩn) để từ đó ta tính ra được tổng giá thành, giá thành đơn
vị thực tế của từng loại sản phẩm.
Gọi: Qi là số lượng sản phẩm của loại i.
Hi là hệ số tính giá thành của loại sản phẩm i
Khi đó ta có: Số lượng sản phẩm gốc (Sản phẩm tiêu chuẩn) QiHi
Giá thành đơn vị
sản phẩm gốc
=
Dở dang đầu kỳ
của nhóm s/p
=
Tổng chi phí phát sinh
trong kỳ của nhóm s/p
=
Dở dang cuối kỳ
của nhóm s/p
QiHi
Tổng giá thực tế
của từng loại s/p
=
Giá thành đơn vị
sản phẩm gốc
=
Số lượng sản phẩm
gốc của từng loại
Giá thành đơn vị thực tế
=
Tổng giá thành thực tế của từng loại sản phẩm
của từng loại s/p Số lượng sản p