Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến
năm 2000, Đảng ta cũng đã chỉ rõ “Chính sách tài chính
quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu
hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và
và thu nhập quốc dân.”. Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là những
vấn đề đang được Chính phủ, Ngân hàng và các doanh nghiệp đặc biệt
quan tâm.
Đại hội Đảng toàn lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt đổi mới
chính sách và cơ chế kinh tế nói chung, thị trường và sản xuất kinh doanh
nói riêng. Các DNNN được quyền tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, nhưng cùng với nó, doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt trên thị trường. Trong cuộc cạnh tranh này DNNN có những
vị thế bất lợi đó l à thiếu vốn, bộ máy chậm thích ứng với sự biến đổi của
thị trường, lắm tầng nấc trung gian, và nhiều sự ràng buộc lẫn nhau, phần
lớn đội ngũ cán bộ rất thụ động.
DNNN là một bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, có
ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n ước
và trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên hiện nay các DNNN đang phải đối
đầu với nhiều vấn đề nan giải, trong đó vốn và hiệu quả sử dụng vốn luôn
là bài toán hóc búa với hầu hết các DNNN.
Vậy huy động vốn ở đâu? làm thế nào để huy động vốn? và đồng vốn
được đưa vào sử dụng như thế nào?. Đó là câu hỏi không chỉ các DNNN
quan tâm, mà là vấn đề bức thiết với hầu hết các doanh nghiệp hoạt động
trong nền kinh tế thị trường. Do đó đi tìm lời giải về vốn và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn cho khu vực DNNN là một vấn đề mang tính thời sự và
thiết thực.
66 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1988 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại Nhà nước và công ty kinh doanh thép vật tư Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Các biện pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh ở các DN thương
mại NN & C.ty kinh doanh
thép vật tư Hà Nội
2
Lời nói đầu
rong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến
năm 2000, Đảng ta cũng đã chỉ rõ “Chính sách tài chính
quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu
hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và
và thu nhập quốc dân...”(1). Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là những
vấn đề đang được Chính phủ, Ngân hàng và các doanh nghiệp đặc biệt
quan tâm.
Đại hội Đảng toàn lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt đổi mới
chính sách và cơ chế kinh tế nói chung, thị trường và sản xuất kinh doanh
nói riêng. Các DNNN được quyền tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, nhưng cùng với nó, doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt trên thị trường. Trong cuộc cạnh tranh này DNNN có những
vị thế bất lợi đó là thiếu vốn, bộ máy chậm thích ứng với sự biến đổi của
thị trường, lắm tầng nấc trung gian, và nhiều sự ràng buộc lẫn nhau, phần
lớn đội ngũ cán bộ rất thụ động.
DNNN là một bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, có
ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên hiện nay các DNNN đang phải đối
đầu với nhiều vấn đề nan giải, trong đó vốn và hiệu quả sử dụng vốn luôn
là bài toán hóc búa với hầu hết các DNNN.
Vậy huy động vốn ở đâu? làm thế nào để huy động vốn? và đồng vốn
được đưa vào sử dụng như thế nào?. Đó là câu hỏi không chỉ các DNNN
quan tâm, mà là vấn đề bức thiết với hầu hết các doanh nghiệp hoạt động
trong nền kinh tế thị trường. Do đó đi tìm lời giải về vốn và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn cho khu vực DNNN là một vấn đề mang tính thời sự và
thiết thực.
Qua nghiên cứu và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, em
quyết định chọn đề tài “Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh ở các DN thương mại NN & C.ty kinh doanh thép vật tư
HN
T
3
CHƯƠNG I
VỐN KINH DOANH - NHÂN TỐ QUAN TRỌNG
TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DNTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I - TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỐN KINH DOANH ĐỐI VỚI MỖI DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm về vốn kinh doanh.
Trong các DNTM, vốn kinh doanh có vai trò quan trọng quyết định việc ra
đời, hoạt động, phát triển và giải thể doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh của DNTM là thể hiện bằng tiền toàn bộ tài sản doanh
nghiệp dùng trong kinh doanh bao gồm:
-Tài sản bằng hiện vật như: nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng, hàng hoá.
-Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc,đá quý...
-Bằng bản quyền sở hữu công nghiệp.
Tất cả tài sản này đều được quy ra tiền Việt Nam.
2. Phân loại vốn kinh doanh
Người ta đứng trên những giác độ khác nhau để xem xét vốn kinh doanh
của DNTM.
2.1.Theo giác độ pháp luật, vốn của DNTM gồm có:
- Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập một doanh
nghiệp do pháp luật qui định đối với từng ngành, nghề và từng loại hình sở hữu
doanh nghiệp . Dưới mức vốn pháp định thì không đủ điều kiện để thành lập
doanh nghiệp .
- Vốn điều lệ : là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều
lệ cuả công ty.Tuỳ theo từng loại doanh nghiệp, theo ngành, nghề, vốn điều lệ
không được thấp hơn vốn pháp định.
4
2.2.Theo giác độ vật chất, vốn kinh doanh của DNTM gồm có:
Vốn thực: bao gồm công cụ lao động, đối tượng lao động .
Vốn tài chính: như tiền giấy, tiền kim loại, chứng khoán và các giấy tờ
khác có giá trị như tiền.
2.3.Theo giác độ hình thành vốn, vốn của DNTM gồm có :
Vốn đầu tư ban đầu: là số vốn phải có khi hình thành doanh nghiệp, tức là
số vốn cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc vốn đóng góp của Công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hoặc vốn của Nhà nước
giao.
-Vốn bổ sung: là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do Nhà nước
bổ sung bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn, do sự đóng góp của các
thành viên, do bán trái phiếu.
-Vốn liên doanh: là vốn đóng góp do các bên cùng cam kết liên doanh với
nhau để hoạt động thương mại hoặc dịch vụ.
-Vốn đi vay: trong hoạt động kinh doanh ngoài số vốn tự có và coi như tự
có doanh nghiệp còn sử dụng một khoản vốn đi vay khá lớn của Ngân hàng.
Ngoài ra còn có khoản vốn chiếm dụnglẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng,
khách hàng và bạn hàng.
2.4.Theo giác độ chu chuyển vốn:
Trong hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh vận động khác nhau. Xét trên
giác độ luân chuyển của vốn người ta chia toàn bộ vốn của DNTM gồm: vốn lưu
động và vốn cố định.
-Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu
thông. Vốn lưu động dùng trong kinh doanh thương mại tham gia hoàn toàn vào
quá trình kinh doanh và giá trị có thể trở lại hình thái ban đầu (tiền) sau mỗi vòng
chu chuyển của hàng hoá.
-Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Tài sản cố định
dùng trong kinh doanh tham gia hoàn toàn vào quá trình kinh doanh, nhưng về
mặt giá trị thì chỉ có thể thu hồi dần sau nhiều chu kỳ kinh doanh, nghĩa là về mặt
thời gian phải trên một năm trở lên.
5
3.Đặc điểm của vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của DNTM tham gia hoàn toàn vào các hoạt động của
doanh nghiệp, nhưng chúng có những đặc điểm khác nhau.
3.1.Đặc điểm của vốn lưu động:
Vốn lưu động của doanh nghiệp đó chính là nguồn vốn hình thành lên tài
sản lưu động, là lượng tiền cần thiết ứng trước để có được tài sản lưu động. Vốn
lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ hàng sang tiền. Vốn
lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm vốn dự trữ
hàng hoá, vốn bằng tiền và tài sản có khác.
Trong DNTM, vốn lưu động là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đó là
đặc điểm khác biệt của DNTM với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Ở một
thời điểm nhất định, vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại thường thể hiện
ở các hình thái khác nhau như hàng hoá dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng,
tiền mặt tồn quỹ, các khoản phải thu và các khoản phải trả. Cơ cấu của chúng phụ
thuộc rất lớn vào phương thức thanh toán, phương thức vay (tín dụng) và phương
thức mua bán các loại hàng hoá. Nó thường biến động nhanh, thể hiện căng thẳng
thiếu vốn khi mua hàng nhiều, đặc biệt mua hàng thời vụ, có vốn khi bán hàng.
Để điều hoà vốn, các DNTM thường phải quan hệ với các tổ chức tín dụng , ngân
hàng để vay mượn, thanh toán và gửi tiền.
Đối với DNTM chỉ kinh doanh đơn thuần thì vốn lưu động vận động qua
lại hai giai đoạn :T -H( mua) và H-T’( bán).
Đối với doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh phụ thì vốn lưu
động trải qua ba giai đoạn :
Giai đoạn một: tiền biến thành tư liệu sản xuất và sức lao động.
Giai đoạn hai: kết hợp sức lao động và tư liêu san xuất thành sản phẩm
hàng hoá.
Giai đoạn ba: biến sản phẩm hàng hoá thành tiền.
3.2.Đặc điểm của vốn cố định:
Vốn cố định được biểu hiện dưới hình thái tài sản cố định. Tài sản cố định
phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một
mức độ nhất định. (Ví dụ hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc bằng 500.000
đồng trở lên). Hai là, thời gian sử dụng phải từ một năm trở lên.Tài sản cố định
giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian sử dụng dài. Tài sản cố định
6
chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Tài sản cố định hao mòn
dần:
-Hao mòn hữu hình( hao mòn kinh tế ): hao mòn hữu hình phụ thuộc vào
mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện khác có ảnh hưởng
đến độ bền lâu dài của tài sản cố định như:
*Hình thức và chất lượng của tài sản cố định.
*Chế độ bảo vệ, bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế thường xuyên, định kỳ đối
với tài sản cố định.
*Trình độ kỹ thuật, tinh thần trách nhiệm của người sử dụng và sự quan
tâm của cấp lãnh đạo.
*Các điều kiện tự nhiên và môi trường...
- Hao mòn vô hình: Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công
nghệ mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định.
Tài sản cố định chuyển đổi thành tiền chậm hơn, nhưng tài sản cố định như
nhà cửa, kho tàng, quầy hàng lại là tài sản có giá trị cao, là bộ mặt của doanh
nghiệp nên có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
Hiện nay, tài sản cố dịnh của DNTM tuỳ thuộc theo loại hàng hoá có tỷ
trọng cao, thấp khác nhau (xăng, dầu, vật liệu điện, bách hoá, lương thực...)
nhưng nhìn chung mới chiếm khoảng 1/3 đến 1/4 vốn kinh doanh của DNTM. Đi
đôi với sự phát triển kinh tế - khoa học - công nghệ, tài sản cố định trong các
DNTM ngày càng được trang bị nhiều theo hướng cơ khí hoá, tự động hoá và
hiện đại hoá.
4.Tầm quan trọng của vốn kinh doanh.
Về mặt pháp lý: mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu
tiên doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu
phải bằng lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho
từng loại hình doanh nghiệp). Và khi đó địa vị pháp lý của mỗi doanh nghiệp mới
được xác lập. Ngược lại doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động (như
phá sản, giải thể hoặc sát nhập...khi vốn kinh doanh của doanh nghiệp không đạt
điều kiện mà pháp luật quy định.
Như vậy, vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất
đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp lý của một doanh nghiệp trước pháp luật.
7
Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là một trong những
yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
muốn đứng vững trên thị trường thì doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất
định, lượng vốn đó không những đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh
diễn ra liên tục mà còn phải dùng để cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư, hiện đại
hoá công nghệ... Bởi chúng ta đã biết trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp
không chỉ tồn tại đơn thuần mà trong đó còn có sự cạnh tranh gay gắt với nhau.
Muốn tồn tại và vươn lên trong cạnh tranh thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
lượng vốn nhất định để mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng
hoá.
Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp khi có một lượng vốn tương đối thì doanh nghiệp
đó sẽ chủ động hơn trong việc lựa chọn những phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, có
hiệu quả.
Vốn cũng là yếu tố quyết định doanh nghiệp nên mở rộng hay thu hẹp
phạm vi hoạt động của mình. Thật vậy, khi đồng vốn của doanh nghiệp ngày càng
sinh sôi nảy nở thì doanh nghiệp sẽ mạnh dạn mở rộng phạm vi hoạt động của
mình vào các thị trường tiềm năng mà trước đó doanh nghiệp chưa có điều kiện
thâm nhập. Ngược lại, khi đồng vốn hạn chế thì doanh nghiệp nên tập trung vào
một số hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp có lợi thế trên tthị trường.
Trong cơ chế kinh tế mới, trong điều kiện mở rộng quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh việc có vốn và tích luỹ, tập trung được vốn
nhiều hay ít vào doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh
sản xuất kinh doanh . Tuy nhiên, nó là một nguồn cực kỳ quan trọng để phát huy
tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp ; nó là một điều kiện để thực hiện các
chiến lược, sách lược kinh doanh; nó cũng là chất keo để nối chắp, dính kết các
quá trình và nó cũng là dầu nhớt bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động.
Vốn kinh doanh của DNTM là yếu tố về giá trị. Nó chỉ phát huy tác dụng
khi bảo tồn được và tăng lên sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Nếu vốn không được
bảo tồn và tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn đã bị thiệt hại. Đó là hiện
tượng mất vốn. Sự thiệt hại lớn dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán sẽ
làm cho doanh nghiệp bị phá sản; tức là vốn kinh doanh đã bị sử dụng một cách
lãng phí, không có hiệu quả.
8
II - VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG, QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DNTM.
1.Yêu cầu về vốn
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có cạnh tranh và cơ chế hạch toán
kinh doanh, sự nghiệp kinh doanh của mỗi doanh nghiệp không phải lúc nào cũng
dễ dàng, thuận lợi. Vấn đề xác định về vốn cũng vậy. Do đó nhà quản lý phải dựa
trên mục tiêu trước mắt và lâu dài, trên cơ sở nhận thức các quy luật kinh tế
khách quan và đúc kết kinh nghiệm trong quản lý doanh nghiệp để xác định yêu
cầu về vốn.
Xác định yêu cầu về vốn phải dựa vào đặc điểm kinh doanh của đơn vị.
Mọi hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành từ những định hướng, thông qua
các phương án sản xuất kinh doanh được đúc kết từ những năm trước, phương án
trước mắt và lâu dài do ban giám đốc (hoặc Hội đồng quản trị) tạo ra. Việc đề ra
phương án đó dựa trên cơ sở nghiên cứu tình hình và yêu cầu thị trường để xác
định xem kinh doanh cái gì, ở đâu,chất lượng, số lượng, quy mô và tốc độ phát
triển, phương thức kinh doanh, những cải tiến đổi mới lực lượng lao động sử
dụng, mạng lưới kinh doanh và cơ sở vật chất kỹ thuật, từ đó hiệu quả có thể đạt
được ở từng phương án.
Việc thông qua các phương án kinh doanh dẫn đến xây dựng các yêu cầu
về vốn đáp ứng yêu cầu và mục đích của phương án. Vì vậy, người quản lý sử
dụng vốn có trách nhiệm chủ động chuẩn bị luận cứ có sức thuyết phục để vưà
tham gia xây dựng các phương án đó, vừa đề ra yêu cầu, kế hoạch về vốn phục vụ
phương án này. Việc đề ra luận cứ là cả quá trình thu thập và xử lý thông tin,
đánh giá phân tích tình hình về nhiều mặt như: tình hình và kết quả tài chính của
doanh nghiệp, khả năng nguồn tài chính, tình hình nợ nần, khả năng thanh toán,
khả năng sinh lời, những thông tin kinh tế, giá cả, tiến bộ khoa học kỹ thuật ,công
nghệ, những chủ trương biện pháp kinh tế của Nhà nước. Khi nắm vững được tình
hình trên mới xác định đúng và đủ yêu cầu về vốn kinh doanh, ngược lại sẽ dẫn
đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn làm ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh
doanh.
Xác định yêu cầu về vốn trên cơ sở đặc điểm, điều kiện kinh doanh của
từng đơn vị là điều kiện quan trọng để cho sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.Tuỳ theo đặc điểm về mặt hàng, thế lực và vị trí của doanh nghiệp trên thị
trường mà có nhu cầu về vốn nhiều ít khác nhau. Mặt khác phải dựa vào chu kỳ
sống của sản phẩm để xác định số vốn cần bổ sung thích hợp với từng giai đoạn,
hay yêu cầu về vốn là bao nhiêu để chuyển hướng kinh doanh sang mặt khác.
Đồng thời phải xem xét điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp là thuận lợi hay
khó khăn. Nếu đơn vị đang làm ăn thua lỗ thì có thể giảm nhu cầu về vốn do thu
9
hẹp hoạt động kinh doanh, bán bớt hoặc thanh lý tài sản tạm thời không cần thiết,
bán bớt vật tư dự trữ để giảm các khoản khấu hao, thuế vốn...
Vậy vấn đề đầu tiên để xác định chính xác yêu cầu về vốn kinh doanh của
đơn vị có thể thông qua những căn cứ sau:
-Kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị: xem xét sản lượng hàng hoá
theo kế hoạch, xác định đơn giá từng mặt hàng để nắm hết được lượng vốn cần
thiết phải có để mua hàng bảo đảm kế hoạch.
-Kế hoạch tiến bộ khoa học - kỹ thuật: Hàng năm căn cứ vào các phương án
kinh doanh đề ra, quy mô của doanh nghiệp mà áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật như đầu tư để mua các thiết bị quản lý kinh doanh hiện đại như: máy đếm tiền,
máy kiểm tra khách hàng, máy thanh toán...Khi đã có kế hoạch đầu tư như vậy thì
các khoản mục tiền sẽ phát sinh được đưa vào để xác định nhu cầu vốn.
-Kế hoạch cung ứng vật tư: Dựa vào kế hoạch này để lên kế hoạch vốn
dùng để mua vật tư cũng như các khoản thu do bán hàng, thời gian lưu chuyển
của vốn để xác định nhu cầu vốn hợp lý đến thời điểm gần nhất mà vốn có khả
năng quay vòng được.
-Kế hoạch lao động tiền lương: Theo kế hoạch này để xác định lượng tiền
phải trả cho cán bộ công nhân viên, nó thuộc quỹ lương, tiền thưởng, tiền để chi
trả cho cán bộ khi đau yếu và các khoản chi theo chế độ khác. Tất cả đều được
đưa vào kế hoạch vốn của đơn vị từ đầu năm.
Căn cứ vào những kế hoạch trên đây để xác định nhu cầu về vốn. Bên cạnh
những căn cứ trên nhu cầu về vốn còn phụ thuộc chủ yếu vào: nhịp độ kinh doanh
và thời gian cấp vốn.
Đối với một công ty kinh doanh thương nghiệp người ta thường xác định
nhu cầu theo công thức:
DS
V = ----------- * t = ĐS * t
360
V : nhu cầu vốn.
DS: doanh số một năm.
ĐS: doanh số một ngày.
t : thời gian cấp vốn.
10
Doanh số do khối lượng hàng hoá và giá cả hàng hoá quyết định. Còn thời
gian cấp vốn thường phụ thuộc vào thời hạn thanh toán được ghi trong hợp đồng
và thời gian tính toán chuyển giao khi đòi nợ.
2. Công tác huy động vốn, quản lý sử dụng và sử dụng vốn kinh doanh:
2.1.Nguồn vốn và nguồn huy động vốn kinh doanh:
Quản lý vốn là một mặt rất quan trọng của quản lý doanh nghiệp nói chung
và quản lý tài chính nói riêng. Mục tiêu của công tác quản lý vốn là sử dụng có
hiêụ quả kinh tế xã hội cao nhất. Trong đó khâu tạo lập huy động vốn, xác định
khả năng huy động sử dụng vốn thích ứng với tình hình kinh tế diễn biến và nhu
cầu kinh doanh trong từng thời kỳ nhất định là một khâu không thể thiếu trong
công tác quản lý vốn.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước họ nhận được một số vốn nhất định do
Nhà nước cấp phát từ ngân sách. Vốn ngân sách Nhà nước bao gồm:
-Vốn cấp thẳng từ ngân sách Nhà nước cho mục đích đầu tư hình thành doanh
nghiệp.
-Vốn rút từ doanh nghiệp Nhà nước khác (giải thể, chuyển giao, sát
nhập...) để bổ xung cho doanh nghiệp mới.
-Các khoản viện trợ trực tiếp từ nước ngoài.
Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp quan tâm chủ yếu đến việc hoàn
thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch pháp lệnh. Các yếu tố chủ quan trọng
việc hình thành giá cả, lợi nhuận và cơ chế giá thấp đã làm cho các doanh nghiệp
không có điều kiện và không bắt buộc phát huy tính tự chủ, tính chịu trách nhiệm
về lãi kết quả hoạt động kinh doanh. Vì lỗ đã có Nhà nước chịu và lãi cũng không
được hưởng thu xứng đáng. Sự bao cấp về vốn, tổ chức chu chuyển vốn không
kích thích doanh nghiệp mà chỉ quan tâm đến việc càng xin nhièu vốn càng tốt”.
Quyết định 217 HĐBT chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang hạch toán
kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ tài chính, điều này tạo quyền chủ động trong
quản lý sử dụng vốn, kích thích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy tính
năng động sáng tạo trong tạo lập, quản lý sử dụng các nguồn vốn kinh doanh.
Do vậy, bên cạnh nguồn vốn được ngân sách cấp, căn cứ vào nhu cầu vốn
đã xác định doanh nghiệp tiến hành huy động ngoài để đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh. Nếu trong dự án kinh doanh càng chứa đựng thành công lớn thì khả
năng huy động vốn càng dễ dàng thuận lợi.
11
Doanh nghiệp có thể huy động vón thông qua các hình thức sau:
-Vay Ngân hàng: là hình thức vay phổ biến của các doanh nghiệp hiện
nay. trong quá trình hoạt động , các doanh nghiệp có thể huy động vốn tín dụng
dài hạn hoặc tín dụng ngắn hạn để đảm bảo nguồn taì chính trong những trường
hợp cần thiết.
-Vay các tổ chức tín dụng, kho bạc: ngoài việc vay ngân hàngdoanh
nghiệp có thể vay ở các kho bạc để bổ xung vốn kinh doanh.
-Vay công nhân viên chức: các doanh nghiệp rất coi trọng nguồn vốn
trong tầng lớp cán bộ công nhân viên, khuyến khích mọi người bỏ vốn vào kinh
doanh, nhất là vốn đang tạm thời nhàn rỗi.
-Liên doanh liên kết: là vốn mà các doanh nghiệp tham gia liên doanh
liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên liệu, vật liệu, tài sản cố định,
vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành...để phát triển kinh doanh vì lợi ích
chung.
-Nguồn vốn tự bổ xung: là nguồn vốn được hình thành từ lợi nhuận để
lại, chênh lệch giá không phải nộp hoặc từ vốn vay để mua sắm xây dựng tài sản
cố định sau khi trả hết nợ và lãi suất tiền vay, trích từ quỹ công ty bổ xung vào
vốn.
Tóm lại, đó là một số định hướng để tạo vốn, tuỳ thuộc vào từng điều kiện
cụ thể của từng công ty, doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp phải có trách nhiệm
đề ra các biện pháp sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
2.2. Lập kế hoạch quản lý và sử dụng vốn kinh doanh:
Công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh là một hệ thống quan hệ kinh
tế dưới hìn