a, Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên tất cả các lĩnh
vực, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đang hướng đến mục tiêu "đến năm 2020, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại". Công nghệ thông tin - truy ền thông đã và đang trở thành
một lĩnh vực có vị trí rất quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.
Từ năm 1995 đến nay, Nhà nước đã quyết định nhiều chủ trương; triển khai nhiều
chương trình, đề án, dự án. công nghệ thông tin - truy ền thông trong hệ thống cơ quan
của Đảng và Nhà nước nhằm ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước thực hiện tin
học hoá trong các lĩnh vực hoạt động của cơ quan Đảng, bộ máy Nhà nước và các
ngành, các cấp.
Trong sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, y tế, văn hoá, giáo dục. quá
trình tin h ọc hoá đã diễn ra nhanh chóng, đem lại nhiều kết quả. Ở nước ta, bước đầu đã
hình thành khu vực kinh tế thông tin trong nền kinh tế. Hàng năm, khu vực này đều có
chỉ số tăng trưởng từ 30% trở lên. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy những tiềm
năng to lớn; triển khai nhiều dự án, trong đó có những dự án có quy mô lớn trong lĩnh
vực công nghệ thông tin - truy ền thông ở nước ta.
Công nghệ thông tin - truy ền thông đã và đang trực tiếp góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội và là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri thức. Để
trở thành một nước công nghiệp phát triển; nhanh chóng tiếp cận kinh tế tri thức, nền
kinh tế nước ta nhất định phải tiếp tục thúc đẩy nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông
tin; thúc đẩy quá trình tin học hoá trong tất cả các ngành sản xuất, trong các lĩnh vực
đời sống xã hội và trước hết là trong hoạt động quản lý của các cấp.
Tuy vậy, hiện nay trong hoạt động của cơ quan Đảng và Nhà nước (bao gồm các
đơn vị quản lý h ành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp), việc ứng dụng công nghệ
thông tin - truy ền thông còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số đề án, dự án cấp quốc gia gần
- 6 -đây đã không thực hiện được mục tiêu, không đảm bảo tiến độ, quản lý lỏng lẻo, yếu
kém. Hệ quả tất yếu là không thực hiện được yêu cầu tin học hoá trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước, trước hết là tin học hoá quản lý hành chính nhà nước; gây tổn thất về
kinh tế và tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với việc thực hiện các chương
trình ứng dụng công nghệ thông tin - truy ền thông do Nhà nước đầu tư và chỉ đạo thực
hiện.
Ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam đã có Chỉ thị số 58/CT-TƯ về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2006, Quốc hội đã thông qua và công bố
Luật Công nghệ thông tin - truyền thông của nước ta. Gần đây, ngày 10/4/2007, Chính
phủ đã ban hành Nghị địn h số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin -truyền thông trong các cơ quan nhà nước. Đó là những văn kiện rất quan trọng, không
chỉ có vai trò xác định ph ương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông
tin - truy ền thông ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà
còn là cơ sở pháp lý để các cấp từ Trung ương đến cơ sở xác định các chủ trương, biện
pháp cụ thể nhằm ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đ ẩy quá trình tin học hoá các lĩnh
vực hoạt động trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước và trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
b, Với sự hợp nhất của Học viện Hành chính quốc gia, từ năm 2007, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã trở thành một cơ sở lớn nhất, một trung
tâm quốc gia về đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, trang bị kiến
thức, kỹ năng về quản lý nhà nước; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung
ương Đảng và Chính phủ. Trong giai đoạn cách mạng mới, vai trò, vị thế và tầm vóc của
Học viện càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Ngày nay, công nghệ thông tin - truy ền thông - truy ền thông đã trở thành công cụ,
phương tiện, giải pháp công nghệ có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội lớn nhất trong
việc khai thác, cung cấp các nguồn tài nguyên thông tin cho mọi đối tượng. Với máy tính
điện tử và các hệ thống mạng, công nghệ thông tin - truy ền thông - truy ền thông cung cấp
phương tiện làm việc để mọi người có thể trao đổi dữ liệu trên phạm vi toàn cầu. Khi
được ứng dụng trong thực tế, công nghệ thông tin - truy ền thông - truy ền thông không chỉ
nâng cao năng suất, hiệu quả xử lý thông tin mà còn trở thành một nhân tố trực tiếp tác
- 7 -động đến phương pháp tư duy, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ và tất cả mọi thành viên
trong từng tổ chức.
Trong quản lý nhà nước, công nghệ thông tin - truy ền thông - truy ền thông có mối
liên hệ chặt chẽ và trực tiếp thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách nền hành chính quốc gia.
Hiệu quả đích thực của ứng dụng công nghệ thông tin - truy ền thông, tin học hoá trong
các lĩnh vực chính là tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác quản lý; gia tăng giá trị
của các sản phẩm, trư ớc hết là các sản phẩm yêu cầu có hàm lượng tri th ức cao.
Các chức năng cơ bản của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
là đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, tất yếu nhu cầu về thông tin và xử lý thông tin
ngày càng đòi hỏi phải được đáp ứng cao hơn. Trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của Học viện không chỉ là nhu cầu khách quan
mà còn góp phần đề cao vai trò, vị thế và tầm vóc của Học viện. Tin học hoá công tác
quản lý tại trung tâm Học viện có vai trò và tác dụng là khâu m ở đầu, có ý nghĩa quan
trọng nhất của quá trình tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của hệ thống Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
87 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 2 -
Luận văn
Các giải pháp tin học hoá
công tác quản lý tại trung
tâm Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh
- 3 -
MỤC LỤC
Phần mở đầu ........................................................................................................................ 4
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC, THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TIN HỌC HOÁ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ..................................................................................... 154
1.1 Một số vấn đề lý thuyết về tin học hoá công tác quản lý và ứng dụng
vào điều kiện thực tiễn của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ...... 154
1.1.1 Quan niệm về tin học hoá ............................................................................. 154
1.1.2 Chủ thể, đối tượng của công tác quản lý trong hệ thống Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và vấn đề tin học hoá
công tác quản lý ........................................................................................... 243
1.2 Tính khách quan và yêu cầu cấp thiết đối với nhiệm vụ tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ... 309
1.2.1 Vai trò của công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động quản lý
ở các nước và nước ta hiện nay ..................................................................... 30
1.2.2 Công nghệ thông tin - truyền thông và tin học hóa với vai trò, tầm vóc
của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ................................ 333
1.3. Thực trạng về tin học hoá ở trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, nhu cầu và triển vọng ........................................................ 354
1.3.1 Thực trạng về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông và tin học hóa
tại trung tâm Học viện .................................................................................. 354
1.3.2 Cơ sở lý thuyết, tác dụng, hiệu quả và triển vọng của quá trình
tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện. ......................................... 476
Chương 2: HỆ GIẢI PHÁP TIN HỌC HOÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ............................. 509
2.1 Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền
thông, tin học hoá công tác quản lý cho các đối tượng tại Học viện ......................... 509
2.2 Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách thúc đẩy quá trình tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện ............................................................... 554
- 4 -
2.3 Nhóm giải pháp về kỹ thuật - công nghệ nhằm tiến đến tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện ................................................................ 654
2.3.1 Nghiên cứu, triển khai ứng dụng công nghệ quản lý trực tuyến
tại trung tâm Học viện .................................................................................... 654
2.3.2 Áp dụng rộng rãi công nghệ VPN và VLAN ....................................................... 743
2.3.3 Tiếp tục xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng thông tin .......................... 765
2.3.4 Những biện pháp cụ thể, mục tiêu và lộ trình thực hiện tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện đến năm 2015 ..................................... 787
Kết luận và kiến nghị ............................................................................................................. 81
Tài liệu tham khảo ............................................................................................................... 85
- 5 -
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
a, Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên tất cả các lĩnh
vực, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đang hướng đến mục tiêu "đến năm 2020, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại". Công nghệ thông tin - truyền thông đã và đang trở thành
một lĩnh vực có vị trí rất quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.
Từ năm 1995 đến nay, Nhà nước đã quyết định nhiều chủ trương; triển khai nhiều
chương trình, đề án, dự án... công nghệ thông tin - truyền thông trong hệ thống cơ quan
của Đảng và Nhà nước nhằm ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước thực hiện tin
học hoá trong các lĩnh vực hoạt động của cơ quan Đảng, bộ máy Nhà nước và các
ngành, các cấp.
Trong sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, y tế, văn hoá, giáo dục... quá
trình tin học hoá đã diễn ra nhanh chóng, đem lại nhiều kết quả. Ở nước ta, bước đầu đã
hình thành khu vực kinh tế thông tin trong nền kinh tế. Hàng năm, khu vực này đều có
chỉ số tăng trưởng từ 30% trở lên. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy những tiềm
năng to lớn; triển khai nhiều dự án, trong đó có những dự án có quy mô lớn trong lĩnh
vực công nghệ thông tin - truyền thông ở nước ta.
Công nghệ thông tin - truyền thông đã và đang trực tiếp góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội và là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri thức. Để
trở thành một nước công nghiệp phát triển; nhanh chóng tiếp cận kinh tế tri thức, nền
kinh tế nước ta nhất định phải tiếp tục thúc đẩy nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông
tin; thúc đẩy quá trình tin học hoá trong tất cả các ngành sản xuất, trong các lĩnh vực
đời sống xã hội và trước hết là trong hoạt động quản lý của các cấp.
Tuy vậy, hiện nay trong hoạt động của cơ quan Đảng và Nhà nước (bao gồm các
đơn vị quản lý hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp), việc ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số đề án, dự án cấp quốc gia gần
- 6 -
đây đã không thực hiện được mục tiêu, không đảm bảo tiến độ, quản lý lỏng lẻo, yếu
kém. Hệ quả tất yếu là không thực hiện được yêu cầu tin học hoá trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước, trước hết là tin học hoá quản lý hành chính nhà nước; gây tổn thất về
kinh tế và tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với việc thực hiện các chương
trình ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông do Nhà nước đầu tư và chỉ đạo thực
hiện.
Ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam đã có Chỉ thị số 58/CT-TƯ về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2006, Quốc hội đã thông qua và công bố
Luật Công nghệ thông tin - truyền thông của nước ta. Gần đây, ngày 10/4/2007, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin -
truyền thông trong các cơ quan nhà nước. Đó là những văn kiện rất quan trọng, không
chỉ có vai trò xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông
tin - truyền thông ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà
còn là cơ sở pháp lý để các cấp từ Trung ương đến cơ sở xác định các chủ trương, biện
pháp cụ thể nhằm ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy quá trình tin học hoá các lĩnh
vực hoạt động trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước và trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
b, Với sự hợp nhất của Học viện Hành chính quốc gia, từ năm 2007, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã trở thành một cơ sở lớn nhất, một trung
tâm quốc gia về đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, trang bị kiến
thức, kỹ năng về quản lý nhà nước; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung
ương Đảng và Chính phủ. Trong giai đoạn cách mạng mới, vai trò, vị thế và tầm vóc của
Học viện càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Ngày nay, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông đã trở thành công cụ,
phương tiện, giải pháp công nghệ có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội lớn nhất trong
việc khai thác, cung cấp các nguồn tài nguyên thông tin cho mọi đối tượng. Với máy tính
điện tử và các hệ thống mạng, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông cung cấp
phương tiện làm việc để mọi người có thể trao đổi dữ liệu trên phạm vi toàn cầu. Khi
được ứng dụng trong thực tế, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông không chỉ
nâng cao năng suất, hiệu quả xử lý thông tin mà còn trở thành một nhân tố trực tiếp tác
- 7 -
động đến phương pháp tư duy, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ và tất cả mọi thành viên
trong từng tổ chức...
Trong quản lý nhà nước, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông có mối
liên hệ chặt chẽ và trực tiếp thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách nền hành chính quốc gia.
Hiệu quả đích thực của ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, tin học hoá trong
các lĩnh vực chính là tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác quản lý; gia tăng giá trị
của các sản phẩm, trước hết là các sản phẩm yêu cầu có hàm lượng tri thức cao.
Các chức năng cơ bản của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
là đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, tất yếu nhu cầu về thông tin và xử lý thông tin
ngày càng đòi hỏi phải được đáp ứng cao hơn. Trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của Học viện không chỉ là nhu cầu khách quan
mà còn góp phần đề cao vai trò, vị thế và tầm vóc của Học viện. Tin học hoá công tác
quản lý tại trung tâm Học viện có vai trò và tác dụng là khâu mở đầu, có ý nghĩa quan
trọng nhất của quá trình tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của hệ thống Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
c, Từ giai đoạn 1995 - 1996, khi Nhà nước có chủ trương triển khai các chương
trình quốc gia về công nghệ thông tin, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã
được chính thức tham gia các chương trình, dự án này. Những kết quả bước đầu của
nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, tin học hoá ở trung tâm Học
viện là: đã xây dựng được một cơ sở hạ tầng thông tin tương đối hiện đại với các hệ
thống máy chủ của trung tâm Tích hợp dữ liệu, đường truyền dữ liệu bằng cáp quang có
thông lượng đường truyền rất lớn; các đơn vị tại trung tâm Học viện đều được trang bị
máy tính điện tử có kết nối mạng để làm việc; nhiều cán bộ, nhân viên đã được đào tạo
về kiến thức, kỹ năng tin học có thể sử dụng có hiệu quả trong công tác chuyên môn;
Học viện đã xây dựng được một trang thông tin điện tử với số người truy cập, sử dụng
ngày càng tăng; là một phương tiện trao đổi thông tin có hiệu quả cao trong hoạt động
của các cơ quan, đơn vị...
Tuy nhiên, đến nay việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công
tác quản lý các lĩnh vực hoạt động của các đơn vị tại trung tâm Học viện vẫn còn nhiều
vấn đề bất cập. Nổi lên là những vấn đề sau.
- 8 -
- Chưa xác định được phương hướng, chủ trương, kế hoạch và các giải pháp để thực
hiện nhiệm vụ tin học hoá công tác quản lý của Học viện. Các tiến bộ về khoa học, kỹ
thuật - công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông chưa có điều kiện
ứng dụng để phát huy hiệu quả công tác quản lý, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học.
Nhiều giải pháp công nghệ tiên tiến trong xử lý thông tin có thể áp dụng có hiệu quả
trong hệ thống thông tin của Học viện nhưng chưa được nghiên cứu, xem xét và đề xuất
ứng dụng trong thực tiễn...
- Một bộ phận trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhận thức đúng đắn và
đầy đủ về vai trò, tác dụng, hiệu quả của nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin, tin
học hoá công tác quản lý các lĩnh vực hoạt động ở trung tâm Học viện. Vì vậy, chưa coi
trọng công tác xử lý thông tin trên máy tính điện tử và trên môi trường mạng; chưa xây
dựng được các nguồn dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý; chưa quan tâm đến việc
nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng tin học để sử dụng cho công tác chuyên môn đồng
thời tích cực đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ thông tin - truyền thông cho
đơn vị v.v..
- Công tác quản lý của Học viện, trong đó có nhiều nội dung thuộc chức năng quản lý
nhà nước như quản lý cán bộ, công chức, học viên; quản lý công tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học; quản lý tài chính, vật tư, tài sản... vẫn được tiến hành theo cách thức, nề nếp cũ,
lạc hậu và kém hiệu quả; không kịp đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý.
Nhiều công đoạn trong quy trình công tác quản lý có thể sử dụng máy tính điện tử
và các chương trình phần mềm trên máy tính để tác nghiệp nhưng kể cả khi đã có các yếu
tố này thì vẫn thực hiện bằng thao tác thủ công nên năng suất, chất lượng, hiệu quả không
cao; thiếu tính khách quan, chính xác; lãng phí thời gian và ngân sách...
Nguồn dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý nghèo nàn, thiếu thốn; chưa được quan
tâm xây dựng, lưu trữ và bảo quản bằng các phương pháp hiện đại nhằm sẵn sàng truy
xuất và đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý.
Các tài nguyên thông tin như máy tính điện tử và các hệ thống mạng, truyền hình
giảng đường; các vật tư thiết bị công nghệ thông tin; các nguồn dữ liệu số hoá... do thiếu
chủ trương, kế hoạch và giải pháp kỹ thuật công nghệ nên chưa phát huy tác dụng; chưa
được khai thác triệt để, gây nên sự lãng phí không đáng có trong khi sự phát triển của
- 9 -
công nghệ thông tin - truyền thông lại rất nhanh chóng.
- Do xử lý thông tin vẫn theo phương thức thủ công, truyền thống nên hoạt động
của từng đơn vị trong hệ thống Học viện và tại trung tâm Học viện vẫn trong tình trạng
phổ biến là cục bộ, khép kín. Các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Học viện rất khó nắm bắt
chính xác tình hình cụ thể của các đơn vị. Thông tin từ trên xuống bị thất lạc hoặc chậm
trễ. Báo cáo từ dưới lên không đầy đủ, số liệu thiếu chính xác là một trong những nhân tố
tác động trực tiếp đến chất lượng và tính khả thi của các quyết định về lãnh đạo, quản lý.
Công tác quản lý hành chính nhà nước chậm được đổi mới và kém hiệu lực v.v..
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc Giám đốc Học viện quyết định đưa vào kế
hoạch nghiên cứu khoa học năm 2009 đề tài Các giải pháp tin học hoá công tác quản lý
tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là phù hợp với yêu
cầu thực tiễn của Học viện.
Mặc dầu trong khuôn khổ của đề tài này chưa thể có đủ điều kiện để thực hiện các nội
dung cụ thể, chi tiết về việc tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện nhưng trên
cơ sở đề xuất các giải pháp có tính hệ thống, có cơ sở lý luận, cơ sở lý thuyết và thực tiễn
sẽ là khâu mở đầu cho quá trình xác định một cách đầy đủ những vấn đề cơ bản về tin học
hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện; định hướng nhiệm vụ ứng dụng công nghệ
thông tin; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý của Học viện. Đồng
thời, các Học viện khu vực có thể tham khảo để thực hiện nhiệm vụ tin học hoá các hoạt
động của cả hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Ở nước ta, các nghiên cứu khoa học đối với lĩnh vực tin học và công nghệ thông tin
- truyền thông là một trong những nội dung đã được quan tâm từ nhiều năm qua, nhất là
từ năm 1995, khi Nhà nước chính thức có chủ trương và các kế hoạch, chương trình về
ứng dụng công nghệ thông tin.
Tuy vậy, nghiên cứu về tin học hoá tức là ứng dụng công nghệ thông tin - truyền
thông trong từng lĩnh vực cụ thể thì các nhà nghiên cứu thường nghiêng về hướng làm
thế nào để nhanh chóng đưa công nghệ thông tin - truyền thông vào lĩnh vực đó nhằm
khai thác được những tiến bộ về kỹ thuật - công nghệ; đầu tư trang thiết bị; đào tạo người
- 10 -
sử dụng... Việc nghiên cứu các giải pháp có tính đồng bộ như những vấn đề về chiến lược
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông để tin học hoá, những vấn đề
về cơ chế, chính sách, về con người... thường chưa được chú ý. Gần đây, thất bại của Đề
án Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 (thường gọi là Đề án
112) đã thể hiện rất rõ điều đó.
Mặt khác, các chương trình, đề án về công nghệ thông tin - truyền thông của Nhà
nước như Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin - truyền thông đến năm 2000 (IT
2000), Đề án 112, Đề án 47 (Tin học hoá hoạt động các cơ quan của Đảng)... thực chất là
thực hiện tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan của Đảng.
Mặc dầu trong các chương trình này có bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa học
nhưng xét về bản chất thì đó là các chương trình đã được các cấp có thẩm quyền phê
duyệt và quyết định thực hiện trên diện rộng. Các hạng mục của những chương trình và
đề án này đều được đầu tư và bắt buộc phải thực hiện cho dù về phương diện khoa học có
thể còn những vấn đề phải bàn luận và nghiên cứu. Từ đó có thể nhận thấy, trong thực
tiễn vấn đề tin học hoá có thể đã được triển khai thực hiện trên phạm vi rộng lớn nhưng
những đề tài nghiên cứu khoa học về tin học hoá còn ít được coi trọng.
Tuy nhiên, trong các tài liệu đã công bố của đề án nêu trên nhiều nội dung về
phương diện khoa học, kỹ thuật - công nghệ vẫn có thể tham khảo và vận dụng.
Những công trình đã công bố liên quan đến vấn đề tin học hoá công tác quản lý có
thể tham khảo gồm: Quản lý thông tin và công nghệ thông tin - truyền thông của Nguyễn
Khắc Khoa, NXB Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội, 2000; Tin học hoá công tác văn thư, lưu
trữ và thư viện của Dương Văn Khảm, Hà Nội, 1995. Một số bài báo Tạp chí chuyên
ngành công nghệ thông tin - truyền thông (bản giành cho đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản
lý) đã đề cập đến vấn đề tin học hoá như Chấm công - từ thẻ giấy đến thẻ điện tử của
Nhật Thanh, PC World số tháng 6/2002; Máy tính quản lý chuyền may của Nguyễn
Thanh Thi, PC World số tháng 7/2002...
Trên tạp chí chuyên ngành này cũng đăng tải một số bài giới thiệu kinh nghiệm tin
học hoá của các cơ quan, đơn vị cả trong và ngoài nước như Lotus Domino và bài học
kinh nghiệm của NewYork của Trung Hải, PC World số tháng 8/2002 hoặc gần đây có
bài Ủy ban huyện điều hành trực tuyến của Phi Quân, PC World số tháng 2/2008; Điều
- 11 -
hành sản xuất với MES của Việt Dũng, PC World số tháng 4/2008; Hội họp từ xa với
Tele Presence của Như Dũng PC World số tháng 5/2008 v.v..
Tuy vậy, số công trình nghiên cứu về tin học hoá trong công tác quản lý còn còn
rất mỏng và thưa thớt. Trên các tạp chí chuyên ngành công nghệ thông tin, chưa thấy
các tác giả đề xuất và luận chứng một cách toàn diện đến vấn đề tin học hoá công tác
quản lý trong một mô hình tổ chức nhất định nào đó của cơ quan nhà nước. Đến năm
2008, các luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ về chủ đề này đều chưa thấy công bố.
Ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh, từ giai đoạn 1995 - 1996, Bộ môn Tin học của Học
viện đã chủ trì thực hiện đề tài cấp cơ sở "Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông
trong công tác quản lý"; năm 2002, Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh đã quyết định
triển khai đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ "Các giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng
công nghệ thông tin - truyền thông trong hệ thống Học viện CTQG Hồ Chí Minh" và đã
nghiệm thu, đạt kết quả tốt. Tiếp đến, năm 2005, Văn phòng Học viện tổ chức nghiên cứu
đề tài "Thực trạng về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công tác quản lý
tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh" (loại đề tài Giám đốc giao nhiệm vụ)...
Khái quát chung là các đề tài nghiên cứu khoa học về tin học hoá công tác quản lý
hiện nay chưa nhiều, nhất là những đề tài nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề liên
quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn; xác định phương hướng, giải pháp và đề xuất, luận
chứng về các mô hình tin học hoá trong công tác quản lý. Các công trình nghiên cứu
thường chỉ mới đề cập đến một số khía cạnh về tin học hoá trong một vấn đề cụ thể cần
phải quản lý mà chưa hướng đến lý giải những vấn đề có tính hệ thống, có cơ sở khoa
học và thực tiễn để từ đó có thể đề xuất các giải pháp đồng bộ có tính khả thi đối với
nhiệm vụ tin học hoá trong một mô hình tổ chức nhất định.
3. Mục tiêu của đề tài:
Xây dựng hệ