Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với
hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản chất là một nên kinh tế tiền tệ. Do
đó việc ổn định giá trị đồng tiền cùng với việc thiết lập nền Tài Chính
Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu tiên cho việc kiềm chế lạm phát, và ổn
định nền kinh tế.
Ngày này việc làm và phân phối thu nhập vừa là vấn đề bức thiết
trước mắt, vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vì
vậy mà việc đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, tạo công ăn việc làm là vấn
đề thường trực. Giải pháp cho việc đẩy lùi lạm phát, trách thất nghiệp
nhiều cần tập trung vào chính sách tiền tệ nhưng việc lựa chọn giải
pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu
quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
Được sự hướng dẫn của thầy cô em xin nhận đề tài: “Chính sách
tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn đinh kinh tế ở Việt Nam”.
Tiểu luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ với việc
thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế.
Chương II: Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn
định kinh tế của Việt Nam thời gian qua.
Chương III: Một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính
sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
25 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 2202 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn đinh kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Đề tài: Chính sách tiền
tệ với việc thực hiện
mục tiêu ổn định kinh tế
ở Việt Nam
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 1
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với
hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản chất là một nên kinh tế tiền tệ. Do
đó việc ổn định giá trị đồng tiền cùng với việc thiết lập nền Tài Chính
Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu tiên cho việc kiềm chế lạm phát, và ổn
định nền kinh tế.
Ngày này việc làm và phân phối thu nhập vừa là vấn đề bức thiết
trước mắt, vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vì
vậy mà việc đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, tạo công ăn việc làm là vấn
đề thường trực. Giải pháp cho việc đẩy lùi lạm phát, trách thất nghiệp
nhiều cần tập trung vào chính sách tiền tệ nhưng việc lựa chọn giải
pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu
quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
Được sự hướng dẫn của thầy cô em xin nhận đề tài: “Chính sách
tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn đinh kinh tế ở Việt Nam”.
Tiểu luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ với việc
thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế.
Chương II: Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn
định kinh tế của Việt Nam thời gian qua.
Chương III: Một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính
sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Vì điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, bản thân em là
người Laos chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô trong bộ môn để tiểu luận
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên: chon đao văn na
LỚP:K42-02.02
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI VIỆC THỰC
HIỆN MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH KINH TẾ.
I. ỔN ĐỊNH KINH TẾ- MỘT MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ QUAN
TRỌNG.
Ta biết rằng nhược điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trường là tự
động tạo ra các chu kì kinh doanh, sản lượng thực tế dao động lên
xuống xung quanh trục sản lượng tiền năng, nền kinh tế luôn có xu
hướng không ổn định.
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá
theo ba dấu hiệu chủ yếu: Ổn đinh, tăng trưởng và công bằng xã hội.
Trong đó ổn định kinh tế là một mục tiêu quan trọng hàng đầu của một
nền kinh tế. Ổn định kinh tế vĩ mô là kiểm soát được giá cả, tỷ giá, lãi
suất … Bằng việc duy trì và cải thiện các cân đối lớn của nền kinh tế
phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt là cân đối tiền- hàng, cán cân
thanh toán quốc tế, cân đối giữa thu- chi ngân sách Nhà nước, cân đối
vốn đầu tư, cân đối cung cầu một số mặt hàng thiết yếu nhất để từ đó
làm giảm bớt những dao động của chu kì kinh doanh, giải quyết tốt
những vấn đề cấp bách: Tránh lạm phát cao và thất nghiệp nhiều.
Ổn định kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng vì:
Thứ nhất: ổn định kinh tế vĩ mô là một điều kiện cơ bản của sự
phát triển xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: ổn định kinh tế vĩ mô là một chức năng quan trọng của
nhà nước trong vai trò quản lý nên kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước sẽ trực tiếp can thiệp vào
việc điều hành sản xuất kinh doanh, mà làm tốt chức năng định hướng
cho sự phát triển xã hội (Bao gồm cả chiến lược, quy hoạch, kế hoạch)
đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, ổn định kinh tế
vĩ mô, quản lý tốt kinh tế nhà nước, đảm bảo việc thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 3
Thứ ba: Trong thực trạng của kinh tế vĩ mô hiện nay, bên cạnh
những kết quả tích cực đã xuất hiện một số hạn chế, bất cập và đứng
trước những thách thức không nhỏ.
II. KHÁI NIỆM VÀ CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TỀN TỆ.
2.1. Khái niệm _
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính
sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối vơi nền
kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu kinh tê-xã hội trong từng giai
đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều
hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác
động đền bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục
tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định
giá cả hàng hóa. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến
khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thường là một
năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát
nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hóa.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính
chỉ tập trung vào thành phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khóa của
nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả
năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp
ứng khối lượng cần cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ
và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và
thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những
quỹ đạo đã định.
2.2 Công cụ của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng, Ngân hàng Trung ương có thể thực thi hai loại
chính sách tiền tệ, phù hợp với tình hình thực tiền của nền kinh tế, đó
là chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách thắt chặt tiền tệ.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 4
Chính sách nới lỏng tiền tệ: Là việc cung ứng thêm tiền cho nền
kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc
làm.
Chính sách thắt chặt tiền tệ: Là việc giảm cung ứng tiền cho nền
kinh tế nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền
kinh tế là kiểm chế lạm phát.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, ngân hang trung ương có
thể sử dụng hàng loạt các công cụ tiền tệ nằm trong tầm tay của m ình
đó là các công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
2.2.1 Các công cụ trực tiếp: Gọi là các công cụ trực tiếp vì thông
qua chúng,NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, mà
không cần thông qua một công cụ khác.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân
hàng kinh phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng
nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ là giảm tiền gửi, giảm khả
năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Xong biện pháp này sẽ làm cho các
ngân hàng thương mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh.
Mặt khác nó đễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại
thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng,
ngoại tệ bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng
như nguồn vốn cho vay.
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác, chính
phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt
lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính
chất bắt buộc.
2.2.2. Các công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của
nó có được là nhờ cơ chế thị trường.
- Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa
và dự trữ theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 5
chuyên dùng ở ngân hàng trung ương và để tại quỹ của mình, với mục
đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của Ngân Hàng Thương
Mại và dùng làm phương tiện kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân
hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả
năng cho vay và đầu tư của ngân hàng thương mại từ đó giảm lượng
tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu tiền để cân bằng với sự
giảm cung xã hội. Trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả
năng mở rộng cho vay của Ngân Hàng Thương Mại sẽ tăng lên, dẫn đến
sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để
cân đối tăng cầu về tiền.
- Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn:
Tái chiết khấu và tái cấp vốn là những cách thức cho vay của NHTW
đối với các NHTM.
Công cụ này có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ
của NHKD và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc
giảm tín dụng đối với nền kinh tế.
III.TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH KINH TẾ.
3.1.Dự trữ bắt buộc.
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các NHTM có khả năng biến
những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả
hệ thống, khả năng sinh ra bộ số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để
khống chế khả năng này, NHTW buộc các NHTM phải trích một phần
tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào NHTW không được
hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm
khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các
NHTM.
Khi lạm phát cao, NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng
cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số
nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung
tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và
làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại, nếu NHTW hạ thấp
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 6
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng
của các NHTM cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh
toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng
tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng
giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ dự trữ bắt buộc mang tình
hành chính áp đặt trực tiếp, đầy quyền lực và cực kì quan trọng để cắt
cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền
kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái
chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hòa mức cung tiền
cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ
thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng
lên rất lớn khó kiểm soát.
3.2. Tái chiết khấu:
Là phương thức để NHTW đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai
trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, NHTW đã
tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện việc tạo tiền,
đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền
trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính
sách tiền tệ. Tùy theo tình hình từng giai đoạn, tùy thuộc yêu cầu của
việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính
sách nới lỏng hay thắt chặt tín dụng mà NHTW quy định lãi suất thấp
hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ, phải có tác dụng
hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó.
Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các NHTM cũng phải
nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín
dụng tăng lên, giảm cầu về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ
(nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi).
3.3. hoạt động thị trường mở.
Nếu như công cụ lãi suất chiết khấu là công cụ thụ động của
NHTW, tức là NHTW phải nhờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu,
kỳ phiếu.. đến để xin “tái cấp vốn” thì nghiệp vu thị trường mở là công
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 7
cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền,
qua đó kiểm soát lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền
trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách
mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước
hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của NHTM và các tổ
chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân
hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ
chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh
hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát, việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay
đổi tỷ lệ lạm phát.
CHƯƠNG II
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI THỰC HIỆN MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA.
I.Sơ lược tình hình kinh tế tiền tệ Việt Nam thời gian qua:
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21 chúng ta đã thực hiện xong kế
hoạch năm năm lần thứ 6 là những năm có ý nghĩa quan trọng trong
việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế
xã hội.
1.1 chính sách tài chính.
Có nhiều đổi mới đã góp phần củng cổ và làm lành mạnh một
bước nền tài chính quốc gia, giữ ổn định và cân đối kinh tế vĩ mô, thúc
đẩy phát triển kinh tế.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2001 tăng 14,5% so với năm
2000 và đạt 21,6% GDP, năm 2002 tăng 14,6% và đạt 22,2% GDP. ước
tình 6 tháng đầu năm 2003 tăng 9,5% và đạt 22,8% GDP. Trong các
khoản thu, thu từ kinh tế nhà nước năm 2001 tăng 17,6 % và năm 2002
tăng 7,6%, thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2001 tăng
13,1% trong đó thu về dầu thô tăng 11,7%, năm 2002 tăng 2,7%, riêng
dầu thô giảm 2,6%. Thu ngân sách liên tục tăng qua các năm và tăng
mạnh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, chủ yếu do hệ thống thuế đã từng
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 8
bước được cải cách, đây là một bước tiến bộ quan trọng của quá trình
đổi mới chính sách tài chính, đã dần phù hợp với nền kinh tế thị trường
và yêu cầu của hội nhập nên đã từng bước giảm được phần thất thu.
Chi ngân sách nhà nước năm 2001 tăng 19,1% so với năm 2000
và băng 27% GDP, năm 2002 tăng 13,3% và băng 27,4% GDP, ước
tính 6 tháng năm 2003 tăng 14% và băng 13,4%. Cơ cấu chi ngân sách
nhà nước đã có những chuyển biến theo hướng tiếp tục tăng chi thường
xuyên ở mức cao. Chi đầu tư phát triển tập trung chủ yếu vào cho xây
dựng hạ tầng cơ sở, xong vẫn đảm bảo luôn ở mức 1/3 tổng chi ngân
sách nhà nước.
Chi thường xuyên năm 2001 tăng 15,8% và bằng 14,9%GDP,
năm 2002 tăng 14.9% và bằng 15,3% GDP, 6 tháng đầu năm 2003 tăng
14,3% (kể cả chi thực hiện chế độ tiền lương mới) và băng 15,2% GDP.
Chi thường xuyên đã tập trung và ưu tiên cho các nhiệm vụ quan trọng
như: Giáo dục-đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường. Bội chi
ngân sách nhà nước so với GDP bình quân hàng năm xấp xỉ 5%, ở mức
an toàn và kiểm soát được.
Thu chi ngân sách nhà nước so với GDP
2003 2004 2005
Tổng thu 20,5 21,6 22,2
Thu nội địa 10,5 10,9 11,2
Thu từ kinh tế nhà nước 4,6 4,8 4,6
Thu từ kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1,3 1,2 1,3
Thu hải quan 4,3 4,8 5,9
Thu dầu thô 5,3 5,5 4,8
Thu viện trợ không hoàn lại 0,5 0,4 0,4
Tổng chi 24,7 27,0 27,4
Chi đầu tư phát triển 6,7 8,4 8,2
Chi trả nợ, viện trợ 3,0 3,1 3,7
Chi thường xuyên 14,0 14,9 15,3
1.2 Chính sách tiền tệ.
Hoạt động ngân hàng từng bước được chấn chỉnh, đã có một số
tiến bộ trong điều hành và sử dụng công cụ chính sách tiền tệ, tín dụng
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 9
tiếp tục tăng, đáp ứng một phần quan trọng trong tạo nguồn vốn cho
đầu tư phát triển sản xuất. NHNN vẫn tiếp tục thực thi chính sách tiền
tệ thận trọng, nhằm mục đích ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thị trường không có những biến
động lớn về giá cả, lãi suất và tỷ giá. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng
vẫn chưa phát huy mạnh mẽ vai trò là công cụ quan trọng điều tiết
kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ và khả năng kiểm soát giám sát nền
kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng còn hạn chế.
II.SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM NHẰM ỔN ĐỊNH
KINH TẾ.
2.1 Lãi suất.
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các
nước. ở nước ta NHTW đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi
suất nhằm tác động tích cực đến nền kinh tế trong qua trình chuyển đối
có thể thấy rõ tình linh hoạt của chinh sách lãi suất qua các thời điểm:
- Trước ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện
cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng VN, mức lãi suất cơ bản được
công bố trong những tháng đầu năm 2002 là 0,6%/tháng. NHNN cũng
đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối với ngoại tệ từ
tháng 6 năm 2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn
của VN trong qua trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát
với những diễn biến của thị trường quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước quyết định chuyển sang
cơ chế lãi suất ổn định Đồng VN của các tổ chức tín dụng đối với
khách hàng. Đây là một sự “cởi trói” cho các tổ chức tín dụng trong các
hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng chủ động
trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế
mới đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của
các tổ chức tín dụng. Nếu như với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các đầu
năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất
cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lãi suất thỏa
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 10
thuận từ tháng 6 năm 2002 và nhất là trong các tháng 8và 9 năm 2002
lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7% thậm trí
0,72%/tháng. Mức lãi suất cao nhất trong vòng gần hai năm qua,
không dừng lại ở đó các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vốn vay trên
thị trường vẫn cao các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng vẫn
tiếp tục cuộc cạnh tranh huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi
suất huy động. Thực hiện các hình thức khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn.
Đã xuất hiện diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là
lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi lãi suất ngoại tệ giảm xuống
quá thấp.
2.2 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Ngày 12/7/2000, NHNN Việt Nam chính thức đưa công cụ
nghiệp vụ thị trường vào hoạt động đây là một sự chuyển biến quan
trọng điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam,
từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các cộng cụ gián tiếp
theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Qua hơn hai năm triển khai thực hiện, đến nay đã có 22 tổ chức
tín dụng được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường
mở trong đó có 4 ngân hàng thương mại quốc dân, 10 NHTM cổ phần,
1 ngân hàng nước ngoài, một công ty tổ chức và quỹ tín dụng nhân dân
TW.
Từ tháng 5/2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch
hàng tuần, quy mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh
hoạt. Trong các hình thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì
việc NHNN mua các giấy tờ có giá là chủ yếu (NHNN bơm tiền ra),
chiếm tỷ lệ từ khoảng 71% lên trên 90%.
2.3 Các công cụ khác.
- Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu:
Như đã biết đây là cửa sổ chiết khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm
khả năng cho vay của các NHTM làm tăng hoặc giảm lượng cung ứng
cho nên kinh tế. Trong thời gian vừa qua lãi suất tái cấp vồn và lãi suất
chiết khấu đã được NHNN áp dụng phù hợp với diễn biến trên thị
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 11
trường tiền tệ. Như đã nói do tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ
quá nóng từ tháng 8/2003, NHNN đã quyết định giảm đáng kể lãi suất
tái cấp vốn đây là một quyết định kịp thời đã góp phần hạ nhiệt cơn sốt
lãi suất trên thị trường trong mấy tháng gần đây.
-Dự trữ bắt buộc:
NHTM sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền
cung ứng ra qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM
và tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Trong