Nước Việt Nam, hiện có 53/63 tỉnh, thành có dân tộc thiểu số cư trú, với hơn mười
triệu người, sống rải rác ở 3/4 lãnh thổ, lại ở vào những vị trí chiến lược quan trọng trong
quốc phòng và phát triển kinh tế. Nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số nhất là:
Vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, miền Trung. Đây là những vùng thiếu thông
tin trong thời đại bùng nổ thông tin và hiện đang bị tranh chấp thông tin.
Thực tế cho thấy, trên mạng internet hiện có rất nhiều các trang web phản động
của các thế lực thù địch ở nước ngoài lập ra nhằm mục đích bôi xấu, hạ bệ lãnh tụ, xuyên
tạc chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, kích động quần chúng nhân dân, nhất là
đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành
nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù Nhà nước đã thiết lập những bức tường lửa ngăn
chặn, nhưng chiến dịch "chuyển lửa về quê hương" với tần xuất ngày càng dày khiến
không ít thanh thiếu niên, người dân bi quan, không tin tưởng vào chế độ. Đặc biệt do
phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số học vấn thấp, hiểu biết còn hạn hẹp nên họ đã thành
đối tượng để các thế lực xúi giục, kích động hơn cả. Trước tình hình phức tạp như vậy, với
tư cách là một trong những cơ quan báo chí chính thống, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến chủ trương chính sách của Nhà nước cho đồng bào hiểu không tin theo kẻ xấu phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc, trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam nói chung Ban
truyền hình Tiếng Dân tộc nói riêng càng khó khăn và nặng nề. Vì v ậy, nâng cao nhận thức
chính trị của người làm báo và sự cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin là
yêu cầu cấp bách đối với báo chí nói chung, trong đó có Đài Truyền hình Việt Nam, trước
xu thế cạnh tranh và đa loại hình báo chí
90 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chương trình Dân tộc và Miền núi trên
sóng Đài Truyền hình Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước Việt Nam, hiện có 53/63 tỉnh, thành có dân tộc thiểu số cư trú, với hơn mười
triệu người, sống rải rác ở 3/4 lãnh thổ, lại ở vào những vị trí chiến lược quan trọng trong
quốc phòng và phát triển kinh tế. Nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số nhất là:
Vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, miền Trung. Đây là những vùng thiếu thông
tin trong thời đại bùng nổ thông tin và hiện đang bị tranh chấp thông tin.
Thực tế cho thấy, trên mạng internet hiện có rất nhiều các trang web phản động
của các thế lực thù địch ở nước ngoài lập ra nhằm mục đích bôi xấu, hạ bệ lãnh tụ, xuyên
tạc chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, kích động quần chúng nhân dân, nhất là
đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành
nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù Nhà nước đã thiết lập những bức tường lửa ngăn
chặn, nhưng chiến dịch "chuyển lửa về quê hương" với tần xuất ngày càng dày khiến
không ít thanh thiếu niên, người dân bi quan, không tin tưởng vào chế độ. Đặc biệt do
phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số học vấn thấp, hiểu biết còn hạn hẹp nên họ đã thành
đối tượng để các thế lực xúi giục, kích động hơn cả. Trước tình hình phức tạp như vậy, với
tư cách là một trong những cơ quan báo chí chính thống, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến chủ trương chính sách của Nhà nước cho đồng bào hiểu không tin theo kẻ xấu phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc, trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam nói chung Ban
truyền hình Tiếng Dân tộc nói riêng càng khó khăn và nặng nề. Vì vậy, nâng cao nhận thức
chính trị của người làm báo và sự cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin là
yêu cầu cấp bách đối với báo chí nói chung, trong đó có Đài Truyền hình Việt Nam, trước
xu thế cạnh tranh và đa loại hình báo chí.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác dân tộc trong tình hình mới, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu rõ:
Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số;
giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
thống nhất [ ].
Thời gian qua, cùng với nhiều phương tiện thông tin đại chúng, Đài Truyền hình Việt
Nam đã tham gia tích cực vào công tác tuyên truyền, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bản cả
nước nói chung và đồng bào các dân tộc miền núi nói riêng trong thời kỳ mới, tạo tư tưởng
xuyên suốt trong nhân dân về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế; đồng thời làm cho cán bộ đảng viên, nhân dân, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số thấy rõ được những cơ hội và thách thức, âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế
lực thù địch trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Báo chí đã góp phần thúc đẩy thu hút đầu
tư, quảng bá những tiềm năng, thế mạnh của vùng dân tộc và miền núi.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác dân tộc nêu mục tiêu cụ thể đến năm 2010:
... Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài
phát thanh; các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số
sẽ được bảo tồn và phát triển.
... Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh
truyền hình: tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát
thanh truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số…[ ].
Thực hiện nhiệm vụ trên, Đài Truyền hình Việt Nam không ngừng mở rộng, tăng
cường đầu tư phương tiện kỹ thuật, nhân lực, thời lượng phát sóng, đổi mới nâng cao chất
lượng chương trình truyền hình phục vụ đồng bào dân tộc miền núi là việc làm cần thiết và
luôn có tính thời sự.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Trước bối cảnh hội nhập và phát triển chung của đất nước, thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo giữa các vùng miền và bình đẳng trong thụ hưởng văn hóa và thông tin… là
một trong những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta phấn đấu. Tuy nhiên, việc thông tin
tuyên truyền chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ.
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn có những khó khăn về địa hình,
về điều kiện kinh tế, về trình độ nhận thức… Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng
những khó khăn, hạn chế của đồng bào, những yếu kém, sai sót của các cấp, các ngành
trong nhận thức và tổ chức thực hiện công tác dân tộc ở vùng dân tộc, miền núi để kích
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội…
Vì vậy, cùng với việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đến với đồng bào, tuyên truyền phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây
dựng đời sống mới, tăng cường đại đoàn kết dân tộc…báo chí còn có nhiệm vụ rất quan
trọng, đó là giúp đồng bào nâng cao ý thức cảnh giác với kẻ xấu, không làm theo những
điều trái pháp luật.
Đổi mới thông tin nói chung và đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với Đài
Truyền hình Việt Nam. Trước hết cần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những ưu điểm,
nhược điểm; đồng thời, đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hơn nữa chất lượng và
hiệu quả của thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp
phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên
sóng Đài Truyền hình Việt Nam" làm luận văn Thạc sĩ khoa học báo chí tại Học viện Báo
chí và Tuyên truyền Hà Nội.
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Những năm qua vấn đề dân tộc và miền núi đã được nhiều tác giả, nhiều công
trình nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi cách tiếp cận vấn đề khác nhau.
3.1. Các tài liệu của Hội thảo
Đối với Đài Truyền hình Việt Nam, vấn đề dân tộc và miền núi mới chỉ dừng lại ở
một vài khía cạnh nhỏ hẹp của một số buổi hội thảo và tổng kết năm. Liên quan đến đề tài
này, có một số cuộc hội thảo, tổng kết đáng chú ý như:
Nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Hồ Anh Dũng có bài viết: "Sự
nghiệp phát triển truyền hình ở vùng dân tộc thiểu số" trong cuốn "Các dân tộc thiểu số
Việt Nam thế kỷ XX". Bài viết cho thấy sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng
cường đầu tư cho công tác thông tin tuyên truyền của Đài Truyền hình Việt Nam đối với
vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới.
Năm 2001, Hội thảo tổng kết "Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi" do Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức. Hội thảo nặng
về đọc các báo cáo tham luận, tổng kết của những đại diện cơ quan báo chí. Hội thảo chưa
đi sâu bàn bạc, kiếm tìm giải pháp tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, chất lượng của
đơn vị mình.
Năm 2007, Ủy ban Dân tộc đã tổ chức sơ kết đánh giá tiến độ thực hiện Quyết
định 975/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp một số báo, tạp chí cho đồng bào
dân tộc thiểu số. Nhưng hội nghị mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá mặt tốt, còn hạn chế về
nội dung và hình thức tuyên truyền, công tác phát hành đến đồng bào các dân tộc thiểu số.
3.2. Các luận văn Thạc sĩ
Năm 2001, Nguyễn Xuân An Việt có đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ: "Thông tin
về dân tộc miền núi trên VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Luận văn đã khảo sát chương
trình về đề tài dân tộc miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam trong 3 năm 1999-2001. Ở
công trình này, tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng chương trình, nhằm
tăng cường hiệu quả thông tin về vấn đề dân tộc miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam.
Năm 2005, Phạm Ngọc Bách có đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ: "Chương trình Dân
tộc và Miền núi trên sóng VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Tác giả đã khảo sát các
chương trình dân tộc và miền núi từ tháng 1/2004 đến tháng 6/2005; đồng thời đưa ra các
giải pháp nâng cao chất lượng chương trình.
Kế thừa kết quả của các tác giả nghiên cứu đi trước, luận văn này sẽ đi sâu nghiên
cứu những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trên
cơ sở đó có cái nhìn tổng quát về chương trình Dân tộc và miền núi của Đài Truyền hình Việt
Nam; làm rõ những ưu điểm và nhược điểm; đề xuất những giải pháp nâng cao hơn nữa chất
lượng của công tác thông tin phục vụ đồng bào, nơi còn nhiều khó khăn, nơi mà Đảng và Nhà
nước ta đã và đang quan tâm đầu tư lớn để đồng bào ngày càng có cuộc sống tốt đẹp hơn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận báo chí và thực tiễn sản xuất, phát sóng các sản phẩm của
chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, luận văn để xuất
giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc tuyên truyền đối với
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 và thực tế
hoạt động sản xuất chương trình Dân tộc và Miền núi nói chung trên sóng Đài Truyền hình
Việt Nam.
- Phân tích kinh nghiệm, phát hiện vấn đề, những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
chương trình;
- Đề xuất giải pháp, khuyến nghị khoa học nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng
chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này bao gồm: một số văn kiện của Đảng, Nhà
nước, các bộ, ngành về đồng bào dân tộc thiểu số và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi; công tác chỉ đạo và đưa tin về lĩnh vực này của Đài Truyền hình Việt
Nam; chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 của Đài Truyền hình
Việt Nam - đây là đối tượng chính mà tác giả khảo sát, nghiên cứu trong luận văn này.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đài Truyền hình Việt Nam có nhiều chương trình phát sóng khác nhau.Tuy nhiên,
thông tin về đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay đều tập trung ở Ban truyền
hình Tiếng Dân tộc. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo
sát các chương trình được phát sóng trong Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển của
Đài Truyền hình Việt Nam từ tháng 5/ 2008 đến tháng 5/2009.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được viết trên cơ sở quan điểm triết học Mác - Lênin, mà nền tảng là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phân tích đánh giá trong đề tài
đứng trên quan điểm báo chí vô sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối dân tộc; dựa vào
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề dân tộc và miền núi;
cũng như quan điểm của Đảng về vai trò của báo chí trong đời sống văn hóa xã hội để làm
căn cứ trong quá trình nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát thực tế, khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và phát triển
trên sóng VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam.
Phương pháp điều tra xã hội học: (phương pháp này dự kiến thực hiện đối với
đồng bào dân tộc thiểu số ở 4 tỉnh là: Hà Giang, Điện biên, Cần Thơ và Gia Lai).
Phương pháp thống kê, phân loại nhằm tổng hợp, phân tích vấn đề một cách cụ
thể, khách quan. Qua đó, tìm ra những điểm nổi bật về nội dung, hình thức, thế mạnh của
chương trình phát trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi.
Phương pháp phỏng vấn sâu những người am hiểu, quan tâm đến chương trình,
cùng ý kiến của các đồng nghiệp, của nội bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên Ban
truyền hình Tiếng Dân tộc; cũng như lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: để rút ra những ưu nhược điểm của chương trình
so với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Từ đó, xác định rõ vai trò, đặc điểm của
thông tin phục vụ đồng bào trong hệ thống báo chí.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ góp phần vào việc tổng kết thực tiễn và lý luận về thông
tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả thông tin phục vụ đồng bào. Đồng thời, luận văn cũng có thể là tài liệu để cán bộ,
phóng viên trực tiếp làm công tác thông tin về lĩnh vực này tham khảo, vận dụng. Luận văn
còn có thể là tài liệu cho các cơ quan chức năng, các cơ sở giáo dục - đào tạo, những ai quan
tâm tham khảo.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về dân tộc và miền núi ở nước ta
Chương 2: Khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1,
từ tháng 5/2008 đến tháng 5/2009
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng chương trình Tạp chí Dân tộc và Miền
núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI
Ở NƯỚC TA
1.1. KHÁI NIỆM VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI
Hiện nay, khái niệm dân tộc còn có nhiều ý kiến khác nhau. Điều đó một phần là
do vấn đề dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm, lập trường và giác độ khác nhau;
phần khác là do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại hình dân tộc đang tồn tại ở các
quốc gia, khu vực trên thế giới. Sự phong phú, phức tạp đó làm cho nhiều định nghĩa được
nêu ra, cho đến nay chưa diễn đạt được đầy đủ, trọn vẹn các thuộc tính của các loại hình
dân tộc đã xuất hiện trên thế giới. Việc tìm kiếm một định nghĩa chuẩn xác về dân tộc đang
là đòi hỏi cấp bách của lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa như sau:
1. Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị- xã
hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban
đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này
của nhiều cộng đồng mang tính người (ethnie) của bộ phận tộc người. Tính chất
của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau…
2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc
người… Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc
(nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau
bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác tộc [63, tr.
655].
Từ điển Tiếng Việt nêu định nghĩa dân tộc như sau:
1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các
quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hóa và tính
cách…
2. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ,
lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc…
3. Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về
sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung [62, tr. 255].
Và định nghĩa dân tộc thiểu số như sau: "Dân tộc chiếm số ít so với dân tộc chiếm
số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc".
Giáo trình triết học Mác - Lênin, do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ sách khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản, nói về
khái niệm dân tộc như sau:
Khái niệm dân tộc thông thường được dùng để chỉ hầu như tất cả các
hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Cần phân biệt "dân tộc"
theo nghĩa rộng trên đây với "dân tộc" theo nghĩa khoa học: đó là hình thức
cộng đồng người cao hơn các hình thức cộng đồng trước đó, kể cả bộ tộc.
Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã
hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Dân tộc có thể từ một bộ tộc
phát triển lên, song, đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc
và tộc người hợp nhất lại. Từ hình thức cộng đồng trước dân tộc phát triển lên
dân tộc là một quá trình vừa có tính liên tục vừa là bước nhảy vọt lớn [42, tr.
475-476].
Từ những nội dung trên có thể khái quát rằng: dân tộc là một khái niệm đa nghĩa,
nhưng có hai nghĩa chính: hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một quốc gia, hoặc để chỉ
cộng đồng dân cư của một tộc người. Sự liên kết cộng đồng dân tộc được tạo nên từ yếu tố
có chung ngôn ngữ, văn hóa, lãnh thổ và biểu hiện thành ý thức tự giác tộc người. Xét cho
cùng, nền tảng của sự liên kết mà các yếu tố trên tạo nên là trình độ phát triển kinh tế. Bởi
vì, tính chất của dân tộc bao giờ cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất.
Ngoài ra nhiều ý kiến còn nhấn mạnh, dù hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc cũng vừa
là một cộng đồng người, vừa là một cộng đồng chính trị- xã hội-tộc người. Có thể định
nghĩa khái quát: dân tộc là một cộng đồng chính trị-xã hội- tộc người. Quan niệm này tạo
nên một ranh giới rõ rệt để phân biệt khái niệm để phân biệt dân tộc với sắc tộc, bởi vì khái
niệm sắc tộc thường dùng để chỉ các tộc người da màu [65, tr. 199]. Quan niệm này cũng
cho phép phân biệt khái niệm dân tộc với khái niệm chủng tộc, vì khái niệm chủng tộc thường
dùng để chỉ sự khác nhau về cấu tạo tự nhiên của con người [63, tr. 529].
Mối quan hệ giữa cái chung-quốc gia và cái riêng- từng dân tộc là mối quan hệ nổi
bật trong chính sách dân tộc. Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã khẳng định:
Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển
của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính
thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất
không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của
mỗi dân tộc [30, tr. 9]
Dân tộc và Miền núi. Đây là cách gọi ngắn gọn khi chúng ta dùng để chỉ toàn bộ
các dân tộc thiểu số và các vấn đề liên quan đến miền núi, cao nguyên, vùng cao. Gọi như
thế này để dễ dàng trong giao tiếp và nhằm khu biệt với những nội dung khác. Hiện nay,
cụm từ này đang được dùng phổ biến trong các đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước
ta.
1.2. DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
1.2.1. Đặc điểm về dân tộc thiểu số và miền núi số
Cộng đồng văn hóa Việt Nam rất đa dạng, bao gồm 54 dân tộc và bảy hệ ngôn ngữ
chính tìm thấy từ Tây Á tới khu vực Thái Bình Dương. Nhiều nhóm dân tộc đã tồn tại rất
lâu đời và thậm chí trước cả khi người Việt tới định cư; một số khác thì mới nhập cư gần
đây. Dân tộc thiểu số và miền núi đông nhất là người Tày, với gần 1,5 triệu người. Trong
khi dân tộc thiểu số nhỏ nhất là người Ơ Đu với con số vừa vặn 300 người. Nhiều dân tộc
cùng có chung ngôn ngữ và lịch sử với các dân tộc ở các quốc gia khác (ví dụ người Tày,
được biết tới như người Choang ở Trung Quốc, họ là dân tộc thiểu số lớn nhất nước), trong
khi một số dân tộc khác lại chỉ thấy tồn tại trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có khoảng
trên 10 triệu người trong tổng số hơn 86 triệu dân cả nước. Đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống tại khoảng 170 huyện của 42 tỉnh trải dài trong cả nước.
Các dân tộc thiểu số và miền núi có một vài đặc điểm chung: 75% dân số là người
dân tộc thiểu số ở Việt Nam sống ở hai vùng: miền núi phía Bắc giáp với Trung Quốc và
vùng Tây Nguyên giáp Lào và Cam-pu-chia. Hầu hết các dân tộc thiểu số đều sống ở vùng
nông thôn. Các vùng khác cũng có người dân tộc thiểu số sinh sống, ví dụ như: người
Khơ-me, người Hoa và người Chăm có thấy ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên nhìn chung là những tỉnh nghèo, kinh