Việt nam đãchuy ển sang thời kỳ đổi mới kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nên kinh tế thị trường được hơn 10 năm. trong việc góp phần đạt được các
mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chính sách tiền tệ của Ngân
hàng nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung
ứng, kìm ch ế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam trong những năm gần đây đãcó sự phát triển đúng hướng và phù hợp
với chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, bên cạnh đóviệc điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa tỏ ra nhạy bén và các chính sách của Ngân
hàng nhà nước chưa linh thoạt. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế ngày càng sôi
động thì việc điều hành chính sách tiền tệ từ các công cụ trực tiếp chuyển sang các
công cụ gián tiếp trong đócó việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở nên
cấp bách. Điều này là phù hợp với quá trình cải cách hệ thống Ngân hàng, với việc
hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới. Nghiệp vụ thị
trường mở cho tới nay mới được thực hiện ở Việt Nam do các điều kiện khách quan
và chủ quan vừa chín muồi. Vì vậy đề tài “ áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong
thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam” là một đề tài hết sức cần thiết cả về mặt lý
lu ận và thực tiễn để góp phần nâng cao hiệu qủa chính sách tiền tệ. Đây cũng là một đề
tài giúp cho các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại, các sinh viên kinh tế
trong việc tiếp cận nghiệp vụ thị trường mở.
30 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2260 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cung tiền, cầu tiền, giảm thiểu lạm phát, tăng giá trị tiền tệ và chính sách của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Cung tiền, cầu tiền, giảm thiểu lạm phát,
tăng giá trị tiền tệ và chính sách của Nhà nước
Mở đầu
Việt nam đã chuyển sang thời kỳ đổi mới kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nên kinh tế thị trường được hơn 10 năm. trong việc góp phần đạt được các
mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chính sách tiền tệ của Ngân
hàng nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung
ứng, kìm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển đúng hướng và phù hợp
với chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa tỏ ra nhạy bén và các chính sách của Ngân
hàng nhà nước chưa linh thoạt. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế ngày càng sôi
động thì việc điều hành chính sách tiền tệ từ các công cụ trực tiếp chuyển sang các
công cụ gián tiếp trong đó có việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở nên
cấp bách. Điều này là phù hợp với quá trình cải cách hệ thống Ngân hàng, với việc
hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới. Nghiệp vụ thị
trường mở cho tới nay mới được thực hiện ở Việt Nam do các điều kiện khách quan
và chủ quan vừa chín muồi. Vì vậy đề tài “ áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong
thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam” là một đề tài hết sức cần thiết cả về mặt lý
luận và thực tiễn để góp phần nâng cao hiệu qủa chính sách tiền tệ. Đây cũng là một đề
tài giúp cho các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại, các sinh viên kinh tế
trong việc tiếp cận nghiệp vụ thị trường mở.
Chính vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả hoạt động nghiệp
vụ thị trường mở của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và giải pháp” với mong muốn
đóng góp tiếng nói của mình vào việc sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở để ngày càng
hoàn thiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đây là một vấn đề đang còn mới, do đó không
thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế, em mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của
các thầy cô.
Đề tài này đưa ra một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường mở để vận dụng
Nghiệp vụ thị trường mở – một công cụ gián tiếp có hiệu qủa của chính sách tiền tệ –
vào tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách
tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Chương I:
cơ sở lý luận nghiệp vụ thị trường mở
I. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở.
1. Sự ra đời và phát triển của Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ những năm 30
của thế kỷ 19. Vào thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Anh được sử
dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, công cụ
này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi sự chi phối
của lãi suất tái chiết khấu. Điều này thúc đẩy Ngân hàng Anh tìm kiếm công cụ có
hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn.
Cách thức đầu tiên được áp dụng để nhằm làm tăng lãi suất thị trường là:
- Bán chứng khoán chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một ngày xác định trong
tương lai.
-Vay trên thị trường _ thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc từ người
môi giới với đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ.
-Bán hẳn các chứng khoán chính phủ.
-Vay từ các Ngân hàng thương mại.
-Vay từ người gửi tiền đặc biệt.
Bằng các cách này, lượng tiền trung ương giảm đi tương ứng với khối lượng
vay hoặc bán chứng khoán, lãi suất thị trường vì thế tăng lên.
Cùng thời gian này, Ngân hàng Trung Ương (NHTW ) Thuỵ Sỹ cũng sử dụng nghiệp
vụ bán các chứng khoán chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả dụng dư thừa. Vào
năm 1913, lúc đầu Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử dụng Nghiệp vụ thị trường
mở như một công cụ bổ xung cho chính sách tái chiết khấu. Tuy nhiên, trong và sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất Nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này được sử
dụng như công cụ để tài trợ cho các chi phí chiến tranh và các hoạt động điều chỉnh
kinh tế sau chiến tranh. Cùng với các hoạt động này, lượng chứng khoán chính phủ
nằm trong tay các NHTW tăng lên.
Đến năm 1920, Nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này cũng vẫn chỉ được sử
dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách lãi suất tái chiết khấu và làm cho lãi suất tái
chiết khấu trở nên hiệu quả. Nhưng sau đó, hiệu quả và tầm quan trọng của Nghiệp vụ
thị trường mở ngày càng tăng lên, nó được sử dụng như công cụ chính sách tiền tệ ở ba
nước ban đầu này và sau đó trở thành xu hướng ở hầu hết NHTW các nước khác.
Điều này suất phát từ: hạn chế chính sách tái chiết khấu; sự mở rộng và hoàn
thiện của hệ thống thị trường tái chính; sự tăng lên của lượng chứng khoán chính phủ
và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
Cho đến nay Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng như một công cụ Chính sách tiền
tệ hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của các nước.
2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở.
Theo nghĩa gốc thì cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở” chỉ các hoạt động giao
dịch chứng khoá của các NHTW trên thị trường mở. Thông qua hành vi mua , bán
chứng khoán này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống Ngân hàng
và gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về lý thuyết, các chứng khoán
là đối tượng giao dịch của NHTW, có thể là chứng khoán chính phủ, các chứng khoán
được phát hành bởi các doanh nghiệp hoặc Ngân hàng gồm cả chứng khoán ngắn hạn
và dài hạn. Các chủ thể trong giao dịch Nghiệp vụ thị trường mở có thể là Ngân hàng,
các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính khác.
Về mặt thực tế, Nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch của NHTW trên
thị trường mở. Xét về hình thức thì thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, khác với các khái niệm có phạm vi và công cụ
giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường mở ở
các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao
dịch trên thị trường.
Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán nợ ngắn hạn và
những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Như vậy, ở Nhật thị trường mở là
một bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ hoặc Đức cho phép giao dịch cả
các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở . Xét theo thời hạn của chứng khoán nợ thì
thị trường mở ở những nước này bao gồm cả một phần của thị trường chứng khoán.
Theo cách này, khái niệm “ Nghiệp vụ thị trường mở” có ý nghĩa kinh tế khi nó gắn
với cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở”. Có nghĩa là, các giới hạn khác nhau về đối
tượng và các chr thể giao dịch của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ quyết
định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước
II. Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trường mở.
1. Tác động về mặt lượng (Tác động vào cơ số tiền tệ)
Hành vi mua, bán các chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng ngay
lập tức đến tình trạng dự trữ của các Ngân hàng thương mại (NHTM) thông qua ảnh
hưởng đến tiền gửi của các Ngân hàng thương mại tại NHTW, và tiền gửi khách hàng
tại NHTM từ đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng cho vay của NHTM khi đó nó sẽ tác động
đến hệ số nhân tiền và sẽ tác động đến mức cung tiền. Bằng việc bán các chứng khoán,
NHTW có thể giảm bớt đi một khối lượng tiền dự trữ tương ứng (với điều kiện các
nhân tố khác không đổi) dù người mua là NHTM hay khách hàng của nó, số tiền thanh
toán cho lượng chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của Ngân hàng tại NHTW.
Trong trường hợp người mua là khách hàng của NHTM thì số tiền mua chứng khoán
sẽ giảm số dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM. Sự giảm xuống của dự trữ sẽ làm
giảm khả năng cho vay của hệ thống Ngân hàng và vì thế giảm khối lượng tiền cung
ứng. Hành vi mua chứng khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại.
2.Tác động về mặt giá ( tác động về mặt lãi suất)
Hoạt động mua bán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi
suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất, khi dự trữ của các Ngân hàng bị ảnh hưởng nó tác động đến cung cầu vốn
NHTW trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. Cung – cầu tiền TW thay đổi sẽ dẫn đến
lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này thông qua dự đoán
của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất sẽ truyền tác động của nó đến các
mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc
độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định tại một mức lãi suất được thị trường xác
định.
Thứ hai, việc mua chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung -cầu về các
chứng khoán đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả của nó. Khi chứng
khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của nó cũng thay đổi. Nếu đó là những chứng khoán có
giá chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động
trở lại đến lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng.
Cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán tín phiếu kho bạc
III. Cơ chế hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở.
1. Các Nghiệp vụ thị trường mở.
Trong Nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu không có
sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi. Một
NHTW bản chứng khoán cho NHTM khác xét trong toàn cục chỉ là sự dịch chuyển
chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ dư thừa từ NHTM này sang
NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi.
Có hai loại Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động nhằm thay
đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ, và Nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bụ lại
những chuyển động của nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số tiền tệ.
1.1 Giao dịch giấy tờ có giá
a. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch muabán hẳn).
Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá của NHTW trên
thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Hình thức
giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao
dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các Ngân hàng là dài hạn các giấy tờ đó
phải là các công cụ nợ có mức rủi ro thấp và phải được phát hành bởi các tổ chức đủ
điều kiện theo quy định
b. Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn).
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp
đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một giao dịch
theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi giới trên thị
trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày trong tương lai.
Giao dich mua mua bán có kỳ hạn tồn tại dưới dạng:
Thứ nhất: Mua bán theo hợp đồng mua lại: Là việc NHTW ký hợp đồng mua bán
với người giao dịch và ngươi giao dịch đồng ý mua lại các giấy tờ có giá của NHTW
vào một ngày xác định trong tương lai.
Thứ hai : Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược : là việc NHTW bán các giấy tờ
có giá cho người giao dịch và người giao dịch lại đồng ý bán lại các giấy tờ có giá cho
NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong Nghiệp vụ thị trường mở vì
những lý do sau:
Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng
không dự tính trước đến dự trữ của các Ngân hàng, chi phí giao dịch của một hợp đồng
mua lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp trong trường hợp các
định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc
phục; làm giảm thời gian thông báo, do đó mà làm giảm bớt biến động của thị trường
trước các quyết định hàng ngày của NHTW .
1.2 Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thi NHTW đồng thời ký hai hợp đồng và
lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi
Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ gia giao ngay
Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá co ky hạn
Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong Nghiệp vụ thị
trường mở như: phát hành, chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán đổi các chứng
khoán đến hạn .
2. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.
Các Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phưong thức giao dịch song
phương và qua phương thức đấu thầu. Có 2 loại đấu thầu: Đấu thầu khối lượng và đấu
thầu lãi suất.
a.Phương thức giao dịch song phương.
Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau hoặc
giao dịch thông qua nhà môi giới hoặc đại lý chứng khoán mà không mua bán thông
qua hình thức đấu thầu.
b.Đấu thầu khối lượng.
Là việc NHTWcho người giao dịch biết khối lượng cần can thiệp,NHTW mua hay
bán, niêm yết trước mức lãi suất, thời hạn các giấy tờ có giá còn lại,laọi giấy tờ,thời
điểm và địa điểm mua bán thanh toán. Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ việc đăng ký
số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất cho trước. Việc phân phối thầu đối với một
phiên thầu có lãi suất cố định được tiến hành như sau: Nếu người giao dịch chấp nhận
mức lãi suất ma HNTW đưa ra và họ đặt mức khối lượng giao dịch.Sau đó toàn bộ số
đăng ký đặt thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn khối lượng
HNTW cần can thiệp thì toàn bộ đơn đặt thầu đều được phân phối.Nếu ngược lại thì
phải phân bổ.
c.Đấu thầu lãi suất .
Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền ứng với mức lãi suất mình chọn. Đối
với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số lượng đặt thầu được
sắp sếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân
phối trước cho đến khi số lượng phân phối được sử dụng hết .
Trong đấu thầu lãi suất, NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá (phương thức
Hà Lan) hoặc nhiều giá(phương thức Mỹ)
3. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở.
a. Tín phiếu kho bạc.(TB)
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời
trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là
công cụ chủ yếu của Nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước vì:
-Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
-Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu
can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành,
thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi
trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ.
Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của chính phủ và
sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.
b. Chứng chỉ tiền gửi. (CD).
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính phi ngân
hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với
một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn. Sự
ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân
hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình
thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền.
Tình ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thông của nó và do đó nó
được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp vụ thị trường mở.
c. Thương phiếu. (CP).
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Đây là
giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung vốn ngắn hạn.
Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với người phát
hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính
chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán. Việc mua bán
thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền
gửi của các khách hàng tại NHTM.
d. Trái phiếu chính phủ.
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm bù
đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được
sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối lượng phát
hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trái phiếu
kho bạc trên thị trường tài chính.
e. Trái phiếu chính quyền điạ phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương khác về
thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu
trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu.
f. Các hợp đồng mua lại.
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng làm vật
đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh
toán nợ.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, điều này phụ thuộc
vào:
Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là
dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều
tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm
các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: Thời hạn, mức độ rủi ro,
mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi
cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
4. Những người tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia thị
trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau.
a. Các Ngân hàng thương mại.
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả
năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua thị trường này
các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì:
NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn gửi và dùng
tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt của thị
trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
b. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng .
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính,
quỹ đầu tư…Các tổ chức này coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập qua việc sử
dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá trị ngắn hạn hoặ dài hạn. Các
tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ
cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất.
Đó là động cơ của họ để tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
c. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc để kiếm lời
trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại
chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… để kiếm
lời.
d. Các hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có giá ngắn hạn
mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ mua các chứng khoán
phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi lãi suất dự
đoán.
e. Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.
Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các
chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất kinh doanh;
các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua nghiệp
vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán.
f. Ngân hàng Trung Ương.
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường thông
qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung