Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đó đề ra đường lối đổi 
mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự ngiệp xây dựng và phát triển  đất nước. Việc 
chuyển từ mô hỡnh kinh tế tập trung quan liờu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định 
hướng xó hội chủ nghĩa cho phộp chỳng ta tận dụng, huy  động mọi nguồn lực  để phát 
triển  đất nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đạt  được những thành tựu 
vô cùng to lớn, công cuộc công nghiệp hoá, hiện  đại hoá  đất nước bước  đầu  đó cú 
những thành cụng nhất  định. Quá trỡnh hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế 
càng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng hơn.
Tuy nhiờn, trong quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá nền kinh tế, chúng ta  đó 
khai thỏc tài nguyờn thiờn nhiờn quỏ mức, chưa chú ý đến vấn  đề phát tri ển bền vững, gây 
ra nh ững hậu quả không đáng có về môi trường sinh thái, điều đó đó phỏ vỡ mối quan hệ bền 
vững giữa con người đối với môi trường tự nhiên và tất yếu sẽ bị tự nhiên “trả thù” một cách 
tương  ứng. Ph.Ăngghen đó chỉ ra rằng: “Nền v ăn minh phát triển một cách tự phát, không có 
s ự hướng dẫn một cách có ý thức khoa học thỡ sẽ để lại đằng sau nó m ột bói hoang mạc” [5, 
tr.220].
Hà Nội là một trung tâm chính trị, văn hoá lớn của cả nước, trong quá trỡnh phỏt 
triển kinh tế cũng  để lại nhiều vấn  đề  đối với môi trường tự nhiên. Bên cạnh việc công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề dân số gia tăng cơ học cũng phá vỡ kết cấu hạ tầng vốn 
có của Hà Nội. Điều này buộc Hà Nội phải đẩy nhanh tốc độ mở rộng và đô thị hoá  đất 
nông nghiệp.  Đây là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn  đến nguy cơ mất cân 
bằng sinh thái của chính Hà Nội. Những biểu hiện của nguy cơ tiềm ẩn  đó được bộc lộ 
ngay chính trong quá trỡnh phỏt triển mở rộng  địa giới của Hà Nội. Khu vực  đất canh 
tác nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, các dũng sụng trở thành nơi xả nước thải công 
nghiệp, nhiều khu vực phát triển làng nghề truyền thống một cách tự phát gây ô nhiễm 
nghiêm trọng làm cho môi trường sống của Hà Nội vốn ngột ngạt lại càng trầm trọng 
thêm. Khu vực nông thôn của Hà Nội đóng vai trũ là vựng dự trữ sinh quyển chiến lược 
cho thành phố bị biến  đổi theo hướng bất lợi, trong tương lai  gần nếu không có những 
giải pháp triệt để cho vấn đề môi trường nông thôn và lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sẽ 
dẫn đến những hậu quả khôn lường mà thế hệ tương lai phải gánh chịu
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 109 trang
109 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2175 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Đạo đức sinh thái 
với việc bảo vệ môi trường tự nhiên 
ở nông thôn Hà Nội hiện nay 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đó đề ra đường lối đổi 
mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự ngiệp xây dựng và phát triển đất nước. Việc 
chuyển từ mô hỡnh kinh tế tập trung quan liờu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định 
hướng xó hội chủ nghĩa cho phộp chỳng ta tận dụng, huy động mọi nguồn lực để phát 
triển đất nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đạt được những thành tựu 
vô cùng to lớn, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bước đầu đó cú 
những thành cụng nhất định. Quá trỡnh hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế 
càng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng hơn. 
Tuy nhiờn, trong quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá nền kinh tế, chúng ta đó 
khai thỏc tài nguyờn thiờn nhiờn quỏ mức, chưa chú ý đến vấn đề phát triển bền vững, gây 
ra những hậu quả không đáng có về môi trường sinh thái, điều đó đó phỏ vỡ mối quan hệ bền 
vững giữa con người đối với môi trường tự nhiên và tất yếu sẽ bị tự nhiên “trả thù” một cách 
tương ứng. Ph.Ăngghen đó chỉ ra rằng: “Nền văn minh phát triển một cách tự phát, không có 
sự hướng dẫn một cách có ý thức khoa học thỡ sẽ để lại đằng sau nó một bói hoang mạc” [5, 
tr.220]. 
Hà Nội là một trung tâm chính trị, văn hoá lớn của cả nước, trong quá trỡnh phỏt 
triển kinh tế cũng để lại nhiều vấn đề đối với môi trường tự nhiên. Bên cạnh việc công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề dân số gia tăng cơ học cũng phá vỡ kết cấu hạ tầng vốn 
có của Hà Nội. Điều này buộc Hà Nội phải đẩy nhanh tốc độ mở rộng và đô thị hoá đất 
nông nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến nguy cơ mất cân 
bằng sinh thái của chính Hà Nội. Những biểu hiện của nguy cơ tiềm ẩn đó được bộc lộ 
ngay chính trong quá trỡnh phỏt triển mở rộng địa giới của Hà Nội. Khu vực đất canh 
tác nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, các dũng sụng trở thành nơi xả nước thải công 
nghiệp, nhiều khu vực phát triển làng nghề truyền thống một cách tự phát gây ô nhiễm 
nghiêm trọng làm cho môi trường sống của Hà Nội vốn ngột ngạt lại càng trầm trọng 
thêm. Khu vực nông thôn của Hà Nội đóng vai trũ là vựng dự trữ sinh quyển chiến lược 
cho thành phố bị biến đổi theo hướng bất lợi, trong tương lai gần nếu không có những 
giải pháp triệt để cho vấn đề môi trường nông thôn và lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sẽ 
dẫn đến những hậu quả khôn lường mà thế hệ tương lai phải gánh chịu. 
Đó cú nhiều giải phỏp mang nặng tớnh hành chớnh được đưa ra nhưng chỉ thu được 
kết quả không đáng kể trong việc bảo vệ môi trường của Hà Nội nói chung và khu vực nông 
thôn nói riêng. Để giải quyết vấn đề này một cách chắc chắn và bền vững, cùng với những 
giải pháp về kinh tế, hành chính, pháp luật cần nâng cao nhận thức của người dân trong cuộc 
sống, hoạt động, sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là việc tuyên truyền giáo dục các giá trị đạo 
đức sinh thái. Do vậy chúng tôi chọn đề tài “Đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường 
tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay " làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành triết học. 
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài 
Vấn đề đạo đức sinh thái và việc bảo vệ môi trường nói chung, môi trường nông 
thôn nói riêng đó cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu và nhiều tỏc giả đó cú những bài viết 
trờn cỏc tạp chớ khoa học xó hội trờn cả nước như: 
- Quốc hội nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam: Luật bảo vệ 
môi trường…Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. 
- Bộ Tài nguyên và môi trường: Báo cáo của Bộ tài nguyên và môi trường về 
việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường…(Tại Hội 
nghị môi trường toàn quốc 4/2005). 
- Trần Lê Bảo (chủ biên): Văn hoá sinh thái nhân văn, Nhà xuất bản Văn hoá- 
Thông tin 2001. 
- Phạm Văn Boong: í thức sinh thỏi và vấn đề phát triển lâu bền, Nhà xuất bản 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. 
- Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 1995. 
- Bùi Văn Dũng: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự 
phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ triết học, Viện Triết học, 1999. 
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường 
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, 1998. 
- Hỏi đáp về bảo vệ tài nguyên môi trường nông thôn Việt Nam, 2004. 
- Bộ Chính trị, Nghị quyết số 41- NQ/TU về bảo vệ môi trường trong thời kỳ 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
- Trần Sỹ Phán: Đạo đức sinh thái- vấn đề cần được quan tâm, Tạp chớ Giỏo dục 
lý luận, số 7/2006. 
- Trần Sỹ Phán: Quan điểm của Mác- Ăngghen về mối quan hệ giữa con người 
và giới tự nhiên, Tạp chớ Lý luận chớnh trị, số 6/2006. 
- Hồ Sỹ Quý: Về đạo đức môi trường Tạp chí triết học, số 9/2006 
- Quy định mới về bảo vệ môi trường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
2005. 
- Phạm Thị Ngọc Trầm: Bảo vệ môi trường- nhiệm vụ chung của toàn nhân loại, 
Tạp chí Cộng sản số 26/2002. 
- Phạm Thị Ngọc Trầm: Đạo đức sinh thái- từ lý luận đến thực tiễn, Tạp chí Triết 
học, số 12/2003. 
- “Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển của xó hội”, Nhà 
xuất bản Khoa học xó hội năm 2000 của GS . TS Nguyễn Trọng Chuẩn và tập thể tác 
giả. 
- “Đạo đức sinh thái và việc giáo dục đạo đức sinh thái cho cán bộ chủ chốt cấp 
huyện ở các tỉnh phía Bắc nước ta hiện nay”- Đề tài khoa học cấp Bộ- năm 2004, Học 
viện chính trị - Hành chính Khu vực I, do PGS.TS Vũ Trọng Dung làm chủ nhiệm. 
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 
Mục đích của luận văn 
 Nghiờn cứu vai trũ của đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường nông thôn 
Hà Nội, trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trũ của đạo đức 
sinh thái của người dân trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện 
nay. 
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần thực hiện nhiệm vụ sau: 
- Làm rừ khỏi niệm đạo đức sinh thái, đặc trưng cơ bản và vai trũ của đạo đức 
sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn. 
- Phân tích, đánh giá thực trạng môi trường tự nhiên và đạo đức sinh thái ở nông 
thôn Hà Nội hiện nay. 
- Nêu luận chứng khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp nõng cao 
vai trũ của đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội 
hiện nay. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 
4.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đạo đức sinh thái và môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay 
4.2. Phạm vi nghiên cứu 
Là những nhân tố, những điều kiện tác động đến môi trường tự nhiên và đạo đức 
sinh thái trên địa bàn nông thôn thành phố Hà Nội. Những số liệu và tài liệu khảo sát 
chủ yếu được đề cập từ năm 2005 trở lại đây. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 
 5.1. Cơ sở lý luận 
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về môi 
trường, đạo đức, nông nghiệp và nông thôn…. Ngoài ra, việc thực hiện bản luận văn này tác 
giả cũn tham khảo những cụng trỡnh khoa học đó cụng bố cú liờn quan đến vấn đề đạo đức 
sinh thái, vấn đề môi trường nông thôn hiện nay ở nước ta - nhất là trên địa bàn thành phố Hà 
Nội. 
5.2. Phương pháp nghiên cứu 
 Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chung của chủ nghĩa 
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp cụ thể như: 
điều tra xó hội học, thống kê, so sánh… 
 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn 
- Hệ thống hoá những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh và Đảng ta, làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu và luận giải về đạo đức 
sinh thái trên phương diện triết học; đặc biệt là làm rừ một số đặc trưng cơ bản của đạo 
đức sinh thái, vai trũ của đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông 
thôn. 
 - Phân tích những nhân tố tác động, những biến đổi của đạo đức sinh thái ở một 
địa phương có tính đặc thù như thủ đô Hà Nội. 
 - Đề xuất những giải pháp để nâng cao vai trò của đạo đức sinh thái nhằm bảo vệ 
môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội. 
 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 
7.1. Về mặt lý luận 
- Từ tiếp cận triết học đó nêu và luận giải một cách hệ thống các luận điểm cơ 
bản về đạo đức sinh thái như: sự hỡnh thành, khái niệm, đặc trưng cơ bản, vai trũ của 
đạo đức sinh thái. 
 7.2. Về mặt thực tiễn 
- Luận văn đó góp phần làm rừ thực trạng môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà 
Nội hiện nay và đánh giá, khảo sát, phân tích hành vi của người dân ở nông thôn Hà Nội 
đối với môi trường tự nhiên. 
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập, giảng dạy 
môn đạo đức và đạo đức sinh thái; có thể góp phần phân tích, luận giải và khuyến nghị 
giải pháp cho việc xây dựng nông thôn mới. 
8. Kết cấu của luận văn 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 
chương, 7 tiết. 
Chương 1 
ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VÀ VAI TRề CỦA ĐẠO ĐỨC SINH THÁI 
VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở NÔNG THÔN HIỆN NAY 
1.1. ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC 
SINH THÁI 
 1.1.1. Đạo đức sinh thái 
1.1.1.1. Sự hỡnh thành đạo đức sinh thái 
Danh từ Đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói (moralis 
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cũn “luân lí” thường xem như đồng nghĩa 
với “đạo đức” gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos - nghĩa là lề thói tập tục. Hai danh từ đó chứng 
tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức là nói đến lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định 
của con người trong đời sống. 
Quan niệm mác-xít khẳng định rằng, đạo đức có nguồn gốc từ lao động. Tính 
quy định sâu xa của lao động đối với sự hỡnh thành đạo đức biểu hiện trước hết ở vai 
trũ của lao động trong sự hỡnh thành con người. Trong tác phẩm ''Tác dụng của lao 
động trong quá trỡnh chuyển biến từ vượn thành người'', bằng sự khái quát các tài liệu 
sinh học, nhân học đương thời, Ph.Ănghen đó chỉ ra rằng: Lao động là điều kiện cơ bản 
đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức độ mà trên một ý 
nghĩa nào đó chúng ta phải nói: Lao động đó sỏng tạo bản thân con người. 
Nhưng lao động không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất, mà hành động lịch sử đầu 
tiên của con người với tư cách là con người xó hội đó tạo ra các năng lực, các phẩm 
chất như: nhận thức, thẩm mỹ, đạo đức; đồng thời lao động đó sỏng tạo ra mối quan hệ 
song trựng giữa con người với con người và con người với tự nhiên ... 
C.Mác từng chỉ ra rằng, hành động lịch sử đầu tiên của con người là lao động. 
Nhưng lao động với tư cách là lao động thỡ khụng bao giờ là một hành động đơn lẻ, cá 
biệt. Trong các quan hệ giữa người với người, nghĩa là trong cỏc quan hệ xó hội, con 
người tiến hành lao động để thoả món nhu cầu sống cũng như các lợi ích của mỡnh. 
Nhờ cú tư duy, con người nhận ra sự cần thiết của sự tương trợ lẫn nhau trong lao động. 
Tính tất yếu này đũi hỏi một hy sinh nhất định lợi ích cá nhân cho lợi ích của người 
khác, lợi ích của cộng đồng. Nhưng đổi lại, lao động của con người có hiệu quả hơn. Sự 
tương trợ đó, ban đầu được thể hiện trên cơ sở con người ý thức được tính tất yếu về 
mặt lợi ích của sự tương trợ lẫn nhau. Nhưng sự tương trợ lẫn nhau một khi đó trở thành 
thúi quen, tập quỏn thỡ khi đó con người nảy sinh khát vọng tương trợ tự nguyện. Khát 
vọng đó chính là tỡnh cảm đạo đức đầu tiên của con người. Hành vi được điều chỉnh bởi 
ý thức và khỏt vọng tương trợ tự nguyện chính là hành vi đạo đức đầu tiên của con 
người. Từ lao động và cùng với lao động, sự tương trợ lẫn nhau được mở rộng ra các 
lĩnh vực sống của con người, xó hội. Đó chính là cơ chế của sự hỡnh thành đạo đức. Nó 
hiện diện như một phương thức đặc thù của sự điều chỉnh hành vi con người. Sự điều 
chỉnh ấy dựa trên cơ sở tự giác, tự nguyện và ưu tiên lợi ích của cộng đồng, xó hội. 
Xuất phỏt từ vai trũ lao động đối với sự hỡnh thành, tồn tại và phỏt triển con 
người, C.Mác đi đến quan niệm về tính quy định, xét đến cùng của phương thức sản 
xuất, của tồn tại xó hội đối với toàn bộ cỏc lĩnh vực cũn lại của xó hội. Trong lời tựa 
của tỏc phẩm ''Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị'' C.Mác viết: Phương thức sản 
xuất đời sống vật chất quyết định các quy trỡnh sinh hoạt xó hội, chớnh trị và tinh thần 
núi chung. Khụng phải ý thức của con người quyết định ý thức của họ; trỏi lại tồn tại xó 
hội của họ quyết định ý thức của họ. Luận điểm này chính là chỡa khoỏ để giải thích 
bản chất của tất cả các hiện tượng xó hội, trong đó có đạo đức. 
Đạo đức hỡnh thành từ trong lao động và các hoạt động sống của con người 
nhằm điều chỉnh một cách tự giác và tự nguyện các quan hệ lợi ích giữa cá nhân và 
cộng đồng, xó hội. Sự điều chỉnh này được thực hiện thông qua các nguyên tắc, các 
chuẩn mực phản ánh cỏc yờu cầu xó hội đối với mỗi cá nhân. Đến lượt mỡnh, cỏc yờu 
cầu của xó hội thể hiện trong cỏc nguyờn tắc, cỏc chuẩn mực đạo đức chính là sự phản 
ánh một trỡnh độ phát triển kinh tế - xó hội nhất định và phản ánh những đũi hỏi đảm 
bảo cho sự phát triển ổn định của xó hội tương ứng với trỡnh độ phát triển đó. Nói cách 
khác, mỗi thời đại kinh tế - xó hội nhất định có những đũi hỏi tương ứng về mặt đạo đức 
đối với con người. Do đó, khi cơ sở kinh tế của xó hội đó thay đổi thỡ trước sau những 
chuẩn mực, những nguyên tắc đạo đức xó hội cũng biến đổi theo. 
Lịch sử phát triển của đời sống đạo đức nhân loại đó cho thấy, một mặt trỡnh độ 
phát triển của kinh tế - xó hội quy định nội dung của các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo 
đức; mặt khác trên cơ sở tính quy định của kinh tế - xó hội, cỏc nguyờn tắc, cỏc chuẩn 
mực đạo đức lại tác động ngược trở lại và trở thành một trong những nhõn tố làm bỡnh 
ổn sự phỏt triển của đời sống kinh tế - xó hội. 
 Nói cách khác, tương ứng với mỗi thời đại lịch sử, mỗi hỡnh thỏi kinh tế - xó 
hội là một hỡnh thỏi đạo đức nhất định đặc trưng cho thời đại đó. 
Cùng với tính thời đại, đạo đức mang tính dân tộc. Tính dân tộc của đạo đức quy 
định bởi những nhân tố tự nhiên, tức là sự khác biệt về mặt địa lý, khí hậu, địa vực cư 
trú của các dân tộc, tộc người. Trong quá trỡnh thớch ứng với những điều kiện địa lý 
khác nhau đó, các dân tộc, các tộc người khác nhau hỡnh thành những thúi quen, những 
tập tục, cỏch ứng xử khỏc nhau với tự nhiờn, với con người, từ đó hỡnh thành những 
chuẩn mực, những quan niệm giá trị, những đánh giá đạo đức khác nhau. Chẳng hạn, 
trong điều kiện tự nhiên bất lợi cho sản xuất thỡ những yờu cầu, những chuẩn mực như 
cần cù, tiết kiệm, phân phối công bằng trở thành những chuẩn mực ưu trội. Đồng thời, 
sự trừng phạt đối với sự vi phạm những chuẩn mực này cũng trở lên nghiêm khắc hơn. 
Cũng như vậy, trong điều kiện lạnh giá vùng Bắc cực, dân tộc (tộc người) Exkimô luôn 
phải mặc da thú để che kín người. Vỡ vậy, đối với họ ăn mặc kính đáo là một chuẩn 
mực đạo đức. Tỡnh cảm xấu hổ đối với lối ăn mặc thiếu kín đáo phát triển mạnh hơn so 
với những tộc người da đỏ sống ở vùng nhiệt đới. Một số người da đỏ ở Nam Mỹ cho 
đến nay vẫn cũn sống khoả thõn. Khớ hậu nhiệt đới khiến họ không hỡnh thành ý thức 
và tỡnh cảm đạo đức đối với trang phục. 
Ngày nay, các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển rất chú trọng 
việc khẳng định bản sắc dân tộc của văn hóa và đạo đức. Nhiều quốc gia đó xõy dựng 
bảng giỏ trị tinh thần - đạo đức với những nguyên tắc nền tảng làm cơ sở định hướng 
giá trị cho hoạt động của cả cộng đồng cũng như cho từng người dân. 
Ở nước ta, yêu cầu xây dựng "hệ giá trị và chuẩn mực xó hội mới phự hợp với 
truyền thống, bản sắc dõn tộc và yờu cầu thời đại" đó được khẳng định tại Đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương 
khóa VIII đó cụ thể húa yờu cầu này thành những chuẩn mực, những đức tính dưới đây: 
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vỡ độc lập dân tộc và chủ 
nghĩa xó hội, cú ý chớ vươn lên, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết 
với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vỡ hũa bỡnh, độc lập dân tộc, dân chủ 
và tiến bộ xó hội. 
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vỡ lợi ớch chung. 
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, 
tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện 
môi trường sinh thái. 
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất 
cao vỡ lợi ớch của bản thân, gia đỡnh, tập thể và xó hội. 
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trỡnh độ chuyên môn, trỡnh độ thẩm 
mỹ và thể lực. 
Triết học Mác-Lênin không phủ nhận tính phổ biến toàn nhân loại của đạo đức, 
nhưng khẳng định rằng, trong điều kiện xó hội cú giai cấp đối kháng thỡ khụng thể cú 
một nền đạo đức chung thống nhất cho mọi giai cấp. Ph.Ănghen từng chỉ ra rằng: Con 
người dù tự giác hay không tự giác, rút cục đều rút ra những quan niệm đạo đức của 
mỡnh từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mỡnh, tức là từ 
những quan hệ kinh tế, trong đó người ta sản xuất và trao đổi. Trong xó hội cú đối 
kháng giai cấp, tương ứng với mỗi giai cấp nhất định là một hệ thống đạo đức nhất định 
biện hộ cho lợi ích của giai cấp đó. 
Như vậy, với tư cách là một thực thể xó hội, con người sống trong các mối quan 
hệ xó hội. Đạo đức xó hội đó được hỡnh thành nờn từ cỏc mối quan hệ qua lại và tỏc 
động lẫn nhau giữa người và người trong xó hội. Đạo đức xó hội là sự biểu hiện quan 
trọng nhất bản chất của con người, Mác đó viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất 
con người là tổng hoà những quan hệ xó hội" [42, tr.11]. 
Đồng thời, với tư cách là một thực thể tự nhiên - sinh vật, con người không thể 
sống bên ngoài các mối quan hệ với tự nhiên nghĩa là con người cần phải quan hệ với tự 
nhiên. Đạo đức sinh thái được hỡnh thành nờn từ trong mối quan hệ qua lại và tác động 
lẫn nhau giữa con người và tự nhiên. 
Cú thể núi, tuy cũn manh nha, chưa hoàn chỉnh hoặc ít nhiều cũn mang màu sắc 
thần bớ, song tư tưởng về mối quan hệ gắn bó giữa con người và tự nhiên đó xuất hiện 
ngay từ thời kỳ cổ đại. Trong một số quan niệm của tôn giáo và học thuyết triết học 
phương Đông truyền thống, con người không đối lập với giới tự nhiên, mà luôn được 
coi là một thành tố, một bộ phận của giới tự nhiên. Nho giáo cho rằng, con người sống 
giữa thiên nhiên trời đất, vạn vật nên quan hệ của con người với trời đất là quan hệ 
“thiên nhân cảm ứng”. Tương tự như vậy, đạo giáo cũng coi trọng sự hoà hợp, thống 
nhất của con người trong quan hệ với tự nhiên, với vạn vật trong vũ trụ. Quan niệm hài 
hoà của Lóo Tử chứa đựng hai nội dung chính: con người và trời đất dựa vào nhau để 
tồn tại và phát triển (thiên nhân hợp nhất), quan hệ thuận hoà giữa con người với con 
người, với quan niệm ấy, ông đó đưa ra một triết lý nhõn sinh: “con người phải sống 
thanh tịch thuận theo tự nhiên, không trái với tự nhiên”. Trang Tử quan niệm rằng, giữa 
vật và ta cú sự bỡnh đẳng, rằng trời đất cùng sinh với ta, vạn vật với ta là một… 
Phật giáo nguyên thuỷ coi mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều có quan hệ 
chặt chẽ với nhau, đồng thời là điều kiện cho sự tồn tại của nhau. Ở Việt Nam, tư tưởng 
về sự hoà hợp giữa con người và tự nhiên cũng xuất hiện khá sớm. Khác với phương 
Đông, ở phương Tây tồn tại khuynh hướng đề cao đến mức tuyệt đối hoá vai trũ của con 
người trong mối quan hệ với tự nhiên. Triết học Hy Lạp cổ đại tôn vinh vị trí và vai trũ 
con người, Protagor coi con người là thước đo của vạn vật. Chủ nghĩa duy lý thế kỷ 
XVII - XVIII đó nhấn mạnh rằng, con người là trung tâm của vũ trụ, là chúa tể của giới 
tự nhiên. 
Ki tô giáo quan niệm thế giới và con người là sản phẩm của Chúa sáng tạo ra, 
con người là hỡnh ảnh của Chỳa, nên con người cũng có khả năng sáng tạo và có quyền 
thống trị giới tự nhiên…Những quan niệm đó là cơ sở cho sự nảy nở và phỏt tri