Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế  thị  trường. Trong thời  đại ngày nay, lạm 
phát là vấn đề  trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế-  xã hội  ở  các quốc 
gia. Với tư cách là tổng hoà của các chính sách kinh tế-  xã hội vĩ mô, lạm phát đã có 
những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực,  ở  mức độ
này hay mức độ  khác.... đến toàn bộ  các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ, 
doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ  kinh tế  đối ngoại và đối nội của quốc gia, và tác 
động đến tình hình kinh tế  khu vực và thế  giới với mức độ  tuỳ  theo vị  thế  kinh tế  chính trị
mà nước đó đã  đảm nhận trong khu vực và thế  giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát thế  giới 
luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ.
Trong những năm gần đây, một số  ngân hàng Trung ương các nước đã quyết định 
chuyển hướng chính sách tiền tệ  sang thực hiện chính sách lượng hoá mục tiêu lạm phát. 
Kết quả  nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách mục 
tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ  lệ  lạm phát thấp trong dài hạn,  kinh tế
tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp theo 
từ  việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh bạch công 
khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công chúng hiểu được 
chính sách tiền tệ  một cách đơn giản, dễ  dàng và hiệu quả; cải thiện được môi trường tăng 
trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội.
Để  đạt được các mục tiêu  ổn định giá cả  lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định, chính 
sách tiền tệ  dựa vào khối lượng tiền cung  ứng; Chính sách tiền tệ  dựa vào GDP danh 
nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hoá mục tiêu lạm phát. 
Việc thiết lập chính sách tiền tệ  với mục tiêu kiểm soát lạm phát (NHTW sẽ  điều 
tiết nền kinh tế  sao cho lạm phát chỉ  ở  mức độ  nào đấy và từ  đó sẽ  lan toả  đến mục tiêu 
khác như tăng trưởng  ổn định và tỷ  lệ  thất nghiệp giảm) điều này có nghĩa là lạm phát là 
yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập chính sách tiền tệ. 
Từ  sau khi nền kinh tế  Lào chuyển sang nền kinh tế  thị  trường có sự  quản lý vĩ mô 
của Nhà nước mà hoạt động của hệ  thống ngân hàng nhà nước được coi là khâu  “ đột phá 
khẩu”, thì hệ  thống NHNN Lào đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi mục tiêu 
cơ bản của chính sách tiền tệ, kiềm chế  kiểm soát lạm phát (năm 1998 tỷ  lệ  lạm phát là 
90%, năm 1999: 128,38%, 2000: 23%, năm 2001: 7,81%, năm2004: 10,46 và  đến tháng 
6/2005 là 5,53%). Đi đôi với những thành công đã nói trên, hoạt động kiềm chế, kiểm soát 
lạm phát còn một số  hạn chế  về  mặt chủ  quan và mặt khách quan. Hiện tượng lạm phát 
diễn ra rất phức tạp trong năm 2002 tăng lên 10,63% và đến năm 2003 lại tăng lên 15,49% 
và cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính 
tiền tệ.
Là một chính sách mới, nên chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát đang được 
các nhà quản lý ngân hàng, các nhà kinh tế  nghiên cứu, đánh giá và  rút ra bài học kinh 
nghiệm thông qua thực tế  của các nước đang áp dụng chính sách này. 
ở  CHDCND Lào hiện nay vấn đề này còn khá mới mẻ  và phức tạp, chính vì vậy tôi 
đã lựa chọn đề tài này.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 111 trang
111 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2204 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng và giải pháp trong thực hiện chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Định hướng và giải pháp trong thực hiện 
chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm 
phát ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào 
Lời mở đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay, lạm 
phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế- xã hội ở các quốc 
gia. Với tư cách là tổng hoà của các chính sách kinh tế- xã hội vĩ mô, lạm phát đã có 
những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ 
này hay mức độ khác.... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ, 
doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia, và tác 
động đến tình hình kinh tế khu vực và thế giới với mức độ tuỳ theo vị thế kinh tế chính trị 
mà nước đó đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát thế giới 
luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ. 
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng Trung ương các nước đã quyết định 
chuyển hướng chính sách tiền tệ sang thực hiện chính sách lượng hoá mục tiêu lạm phát. 
Kết quả nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách mục 
tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong dài hạn, kinh tế 
tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm. 
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp theo 
từ việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh bạch công 
khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công chúng hiểu được 
chính sách tiền tệ một cách đơn giản, dễ dàng và hiệu quả; cải thiện được môi trường tăng 
trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội. 
Để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử 
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định, chính 
sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh 
nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hoá mục tiêu lạm phát. 
Việc thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát (NHTW sẽ điều 
tiết nền kinh tế sao cho lạm phát chỉ ở mức độ nào đấy và từ đó sẽ lan toả đến mục tiêu 
khác như tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm) điều này có nghĩa là lạm phát là 
yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập chính sách tiền tệ. 
Từ sau khi nền kinh tế Lào chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô 
của Nhà nước mà hoạt động của hệ thống ngân hàng nhà nước được coi là khâu “ đột phá 
khẩu”, thì hệ thống NHNN Lào đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi mục tiêu 
cơ bản của chính sách tiền tệ, kiềm chế kiểm soát lạm phát (năm 1998 tỷ lệ lạm phát là 
90%, năm 1999: 128,38%, 2000: 23%, năm 2001: 7,81%, năm2004: 10,46 và đến tháng 
6/2005 là 5,53%). Đi đôi với những thành công đã nói trên, hoạt động kiềm chế, kiểm soát 
lạm phát còn một số hạn chế về mặt chủ quan và mặt khách quan. Hiện tượng lạm phát 
diễn ra rất phức tạp trong năm 2002 tăng lên 10,63% và đến năm 2003 lại tăng lên 15,49% 
và cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính 
tiền tệ. 
Là một chính sách mới, nên chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát đang được 
các nhà quản lý ngân hàng, các nhà kinh tế nghiên cứu, đánh giá và rút ra bài học kinh 
nghiệm thông qua thực tế của các nước đang áp dụng chính sách này. 
 ở CHDCND Lào hiện nay vấn đề này còn khá mới mẻ và phức tạp, chính vì vậy tôi 
đã lựa chọn đề tài này. 
2. Tình hình nghiên cứu 
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh 
hưởng của các yêu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yêu tố bên 
ngoài. Đến nay, trên thế giới đã rất nhiều lý thuyết, nhiều cuốn sách, nhiều bài báo và rất 
nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã nghiên cứu vấn đề này. 
Một số công trình đã nghiên cứu về chính sách mục tiêu lạm phát đối với các quốc 
gia: 
1. Kinh tế học, sách tham khảo tập II của Paul a Samuelson Wiliamd. Nordhalls. 
2. Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam, sách tham khảo của PTS. 
Nguyễn Minh Phong NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 
3. Giải pháp hoàn thiện sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ Việt Nam hiện nay, 
Luận văn thạc sỹ kinh tế của Hoàng Thị Kim Thanh 
4. Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hoá, Tạp chí 
Ngân hàng số 8/2004. 
5. Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách tiếp cận trong việc điều hành 
Chính sách tiền tệ của Việt Nam. Th.S. Đỗ Thị Đức Minh – Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam. 
Với nội dung của các công trình nghiên cứu nói trên thì lĩnh vực nghiên cứu và đối 
tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bức xúc đối với CHDCND Lào hiện nay. 
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 
3.1. Mục đích 
Dựa trên lý thuyết chung của các nhà kinh tế học, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính 
ngân hàng và những bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vấn đề kiểm 
soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, đối với CHDCND Lào 
để làm rõ một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ 
trong thời gian qua, rút ra được những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, có được những 
bài học kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhất trong việc thực thi chính 
sách tiền tệ tại CHDCND Lào góp phần ổn định chính sách tiền tệ và phát triển nền kinh tế 
của đất nước một cách bền vững. 
3.2. Nhiệm vụ 
- Làm rõ các lý thuyết về lạm phát và chính sách tiền tệ. 
- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách này ở một số nước để rút ra bài học cho 
CHDCND Lào. 
- Phân tích thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của CHDCND Lào, từng giai 
đoạn, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính sách kiểm soát lạm phát. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Những vấn đề chung về CSTT với mục tiêu kiểm sóat lạm phát, tình hình thực hiện 
của mục tiêu này ở một số nước và thực trạng điều hành CSTT của CHDCND Lào từ 
1994-6/2005 
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn 
Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và dựa trên 
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phương pháp luận. Các phương pháp 
được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê và miêu tả, 
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh... 
6. Đóng góp của luận văn 
 - Phân tích thực trạng thực thi CSTT nhằm mục tiêu kiểm sóat lạm phát trong năm qua, 
rút ra được thành công và hạn chế. 
 - Đưa ra các giải pháp chủ yếu, kiến nghị cụ thể có tính xây dựng nhằn năng cao hiệu 
quả cao trong việc điều hành CSTT nói chung, mục tiêu kiểm sóat lạm phát nói riêng ở 
CHDCND Lào. 
7. Kết cấu của luận văn 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 
3 chương và 9 tiết. 
Chương 1: Lạm phát và chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát 
Chương 2: Điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát ở Cộng hòa Dân chủ 
Nhân dân Lào 
Chương 3: Định hướng và giải pháp trong thực hiện chính sách tiền tệ nhằm kiểm 
soát lạm phát ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào 
Chương 1 
Lạm Phát và chính sách tiền tệ 
với mục tiêu kiểm soát lạm phát 
1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát 
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế đi liền với nền kinh tế thị trường. Có những nhà 
kinh tế đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này, nhưng nói chung, chưa có sự thống 
nhất hoàn toàn.Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối với nền 
kinh tế các nước phát triển và đang phát triển, các nước từ lâu đã theo mô hình của nền 
kinh tế thị trường và cả các nước đang có quá trình chuyển đổi.Không chỉ dừng lại ở việc 
không thống nhất được với nhau môt định nghĩa đúng về lạm phát mà còn không thống 
nhất được với nhau những tác động do lạm phát mang lại. 
Chính vì thế, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống hơn để từ đó có 
những chính sách và giải pháp phù hợp ứng với những đổi thay đã và đang diễn ra trong 
đời sống kinh tế 
1.1.1. Khái niệm lạm phát 
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà 
kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về lạm phát. 
Karl Marx cho rằng “Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết”. Vào thập niên 
1960,Milton Friedman khẳng định lại rằng: “Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện 
tượng tiền tệ” [2, tr.800]. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) – một trường phái lớn về 
khoa kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của xã hội và việc cung 
ứng tiền cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho tiền tệ là trung tâm của nền kinh tế, và việc 
cung tiền là nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản phẩm quốc dân danh 
nghĩa trong ngắn hạn và nó là nhân tố quyết định đến giá cả trong dài hạn. Thực ra, không 
nhất thiết bắt nguồn từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung ứng quá mức đối 
với nền kinh tế. Nhiều cuộc lạm phát diễn ra lại bắt nguồn từ giá hoặc xuất phát từ sự suy 
giảm trong tổng cung của chính nền kinh tế đó. R.Dornbusch và Fischer cho rằng: 
 Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời gian 
nhất định [48, tr.587-588]. 
 Nhìn chung, có hai cách tiếp cận: Một là từ nguyên nhân, hai là từ những ảnh hưởng 
của nó. 
Theo cách tiếp cận thứ nhất thì “lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng” hoặc 
“lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động”. Các định 
nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của lạm 
phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa của nó. 
Theo cách tiếp cận thứ hai thì lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy nhiên, sự 
tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát còn bản chất của nó được thể 
hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao kéo dài hay chỉ tạm thời? 
Tóm lại, lạm phát là sự gia tăng phổ biến và với thời gian dài tổng mức giá cả được 
đo bằng chỉ số giá của nhóm hàng hoá và dịch vụ cơ bản (rổ hàng hoá). Sự gia tăng liên 
tục của giá cả làm suy yếu sức mua của đồng tiền và các tài sản tài chính khác có giá trị cố 
định, gây ra những méo mó nghiêm trọng và tạo ra tình trạng không chắc chắn trong môi 
trường kinh tế vĩ mô và vi mô. 
1.1.2. Phân loại lạm phát 
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau: 
- Phân loại theo định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, 
trong đó có (1) lạm phát một con số hay gọi là lạm phát vừa phải. Loại lạm phát này xảy ra 
khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10% trên 1 năm và nền kinh tế chấp nhận được 
với mức lạm phát này.(2) Lạm phát hai con số thể hiện khi tỷ lệ tăng giá đã tăng đến hai 
con số mỗi năm. Nếu ở mức thấp của loại lạm phát này (> 10% mỗi năm), tác động tiêu 
cực của nó đến nền kinh tế không lớn. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai con số cao lạm 
phát này gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế.(3) Lạm phát phi mã và siêu lạm phát 
là loại lạm phát ba con số trở lên với tốc độ nhanh. Tác động tiêu cực đến đời sống và tính 
ổn định của nền kinh tế. 
- Phân loại theo định tính: Có (1) lạm phát cân bằng và không cân bằng (cân bằng ở 
đây là cân bằng với thu nhập), trên thực tế, lạm phát không cân bằng hay xảy ra. (2) Lạm 
phát thuần tuý là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hoá tiêu dùng và hàng hoá sản xuất 
đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian, lúc này nhu cầu cần 
tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng tiền thực tế.(3) Lạm phát 
bất thường xảy ra có tính đột biến, loại lạm phát này gây ra những cú sốc nền kinh tế và sự 
thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền.(4) Lạm phát dự đoán trước là việc người ta 
nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các nguyên nhân của nó đã lộ diện. 
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường có lạm phát ngầm, lạm 
phát công khai; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có lạm phát quốc gia và 
thế giới; căn cứ vào tính lịch sử, có lạm phát cổ điển gắn với xung đột chiến tranh và lạm 
phát hiện đại gắn liên với hoà bình. 
1.1.3. Đo lường lạm phát 
Thông thường, lạm phát được tính toán gắn liền với tốc độ thay đổi của mức giá cả 
một "rổ" hàng hoá và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tuỳ thuộc đặc điểm và cách thức riêng 
của mỗi nước cụ thể. 
Để đo lường lạm phát, người ta phải so sánh giá cả giữa hai thời điểm khác nhau t0 và 
t1. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hoá nên trong khoảng thời gian t0 – 
t1 mỗi loại hàng hoá có mức tăng giá (Pt1 – Pt0) khác nhau. Do vậy, để tính được tỷ lệ lạm 
phát chung cho nền kinh tế, người ta phải lấy chỉ số giá cả bình quân của cả nước làm 
chuẩn, có ba loại chỉ số giá cả bình quân được sử dụng là: 
Giá cả hàng tiêu dùng ( CPI- Consumer price index): Chỉ số CPI được sử dụng rộng 
rãi nhất. CPI tính chi phí của một rổ hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường các 
nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư, y tế. 
 Giá cả hàng sản xuất bình quân( PPI- Producer price index): Đây là chỉ số giá bán 
buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định. 
Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế. 
Giá cả bán lẻ bình quân(RPI-retail price index). Cuối cùng, lạm phát thường được đo 
bằng chỉ số (%), tực là tỷ lệ lạm phát (%) giữa hai thời điểm t0 và t1 là bằng mức tăng giá 
cả hàng hoá bình quân giữa hai thời điểm, chia cho giá ban đầu và nhân với tỷ lệ %: 
Tỷ lệ lạm phát ( t0 và t1) 
0
01
Pt
PtPt 
 = 
1.1.4. Nguyên nhân của lạm phát 
Lạm phát là kết quả của tổng hoà nhiều nguyên nhân kinh tế xã hội; mỗi loại lạm 
phát có những nguyên nhân đặc trưng riêng của nó tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế- xã hội 
và cách quản lý kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, dù đa dạng và khác nhau đến đâu 
đều có thể quy tụ được những nguyên nhân của lạm phát: 
* Cung tiền tệ và lạm phát: 
 Theo trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng “ lạm phát bao giờ và ở đâu 
cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Theo quan điểm của trường phái này khi cung tiền tệ 
tăng lên, kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát. 
Chúng ta có thể sử dụng mô hình AD- AS để giải thích quan điểm của trường phái 
tiền tệ. 
Hình 1.1: Mô hình AD, AS để giải thích quan điểm trường phái tiền tệ 
Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng tại mức tiềm năng và giá cả tại P1- giao 
điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Nếu cung tiền tăng đều đặn dần 
dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trong một thời 
gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động sản lượng có thể tăng cao hơn mức tiềm 
năng, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm cho tiền lương 
tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng dịch chuyển vào trong và sự dịch chuyển ấy 
sẽ dừng khi nào đạt đến AS2, sản lượng quay trở lại mức tiềm năng của đường tổng cung 
dài hạn. Tại thời điểm cân bằng mới thì P2 cao hơn P1. Nếu cung tiền tiếp tục tăng trong 
những năm tiếp theo thì nền kinh tế lại chuyển động và lạm phát xuất hiện. Tóm lại, 
trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc 
đẩy. 
Theo trường phái của Keynes, việc tăng chi tiêu của Chính phủ hoặc cắt giảm thuế 
cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng những vấn đề của chính sách tài 
khoá lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này 
chỉ là tạm thời. Một phân tích khác của phía Keynes về tác động của những cú sốc tiêu cực 
lên tổng cung cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không tiếp tục tăng lên 
P3 
P
P
AS3 
AS2 
AS1 
AD3 
AD2 
AD1 
Y Yn Y
3 
2
 1 
 2 
1
để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở lại vị trí ban đầu, 
do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng nhất thời. 
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phía Keynes và phía tiền tệ tương đối 
thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao chỉ xảy ra với một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ 
cao. 
* Công ăn việc làm cao và lạm phát. 
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi cũng 
thường gây nên lạm phát đó là tạo việc làm cho người lao động. Trong đó có hai loại: lạm 
phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo, được các nhà kinh tế học kết luận là kết quả của 
chính sách này. 
- Lạm phát do chi phí đẩy: 
 Ngay cả khi sản lượng chưa đạt được đến tiềm năng nhưng vẫn có khả năng xảy ra 
lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm phát này được gọi là lạm phát 
chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp. Các cơn sốc giá 
cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ bản( xăng, dầu, điện....) là nguyên 
nhân chủ yếu khiến đường AS dịch chuyển lên trên. Tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả 
đã tăng và sản lượng lại giảm xuống. 
 - Lạm phát do cầu kéo 
 Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về cung-cầu hàng hoá dịch vụ 
trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung hàng hoá hoặc tốc độ gia tăng 
tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của sản xuất. Kết quả là trên thị 
trường hàng hoá khan hiếm tương đối so với tiền, đồng thời do cả hai nhóm nguyên nhân 
hàng và tiền. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng suất lao động thấp, năng lực sản 
xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng trong điều kiện trình độ hiện tại nhưng 
tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua các van: Chi ngân sách quá lớn so với 
nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhỏ, lãi 
suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường vốn vừa thiếu, vừa không hoàn hảo trong khi 
ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành những “ hợp lực” kích cầu lên cao hơn so với 
cung... 
* Lạm phát theo tỷ giá hối đoái 
Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Tỷ giá giữa 
tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên( tiền trong nước mất giá) thì hàng hoá càng lên 
giá. Và đến lượt mình, giá hàng hoá kéo tỷ giá lên nhanh hơn, gây ra tình trạng lạm phát. 
suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có thể quy về sự gia tăng của cung ứng 
tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều đồng thuận với nhau rằng có yếu tố tâm lý trong 
khuynh hướng kéo hàng hoá lên theo tỷ giá trong khi lạm phát đã hình thành và khuynh 
hướng này rất phổ biến trong khu vực xuất nhập khẩu [27, tr.59]. 
* Thâm hụt ngân sách và lạm phát 
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ 
và gây ra lạm phát cao. 
Khi nhu cầu tiền của Chính phủ cho chi tiêu bị thiếu hụt, Chính phủ chủ trương phát 
hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí bị thiếu hụt. Khi vốn đầu tư và chi 
tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng cách phát hành thêm tiền, kể cả việc tăng thuế, thì nó 
sẽ đẩy nền kinh tế đi vào thế mất cân đối, vượt quá sản lượng tiềm năng của nó. Khi tổng 
cầu của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế, cầu tiền vượt quá lượng 
cung hàng hoá dẫn đến lạm phát, giá cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng. 
 Hàng hoá bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Như vậy, bản chất của lạm phát đó 
do nguyên nhân cầu là do chi tiêu quá nhiều, trong lúc lượng cung hàng hoá bị hạn chế. 
Trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ là 
nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát. 
1.1.5. Các tác động của lạm phát 
Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình thức sản 
lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn nữa, lạm phát tác 
động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực. 
* Về mặt tích cực: 
Với tốc độ