Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế, lĩnh vực tài chính, ngân hàng có vai trò ngày một quan trọng hơn. Hệ thống ngân
hàng thương mại có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt đối với các địa bàn có khu công nghiệp mới hoạt động, nơi có nhiều doanh nghiệp đang
ở trong giai đoạn đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại đó, vai trò của các ngân hàng
thương mại còn quan trọng hơn, cung cấp vốn, dịch vụ ngân hàng và hỗ trợ thúc đẩy sự phát
triển của các doanh nghiệp.
Khu Công nghiệp Tiên Sơn là khu công nghiệp đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh được
thành lập từ ngày 18/12/1998. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp đầu tư vào khu công
nghiệp này là các ngành nghề có công nghệ cao, ngành công nghiệp sạch hoặc ít ô nhiễm
môi trường và có quy mô tương đối lớn. Mặt khác, các doanh nghiệp ở đây do đang trong
quá trình xây dựng và lắp đặt mới nhà xưởng, máy móc nên cần một lượng vốn lớn; do đó
rất cần sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng thương mại đang hoạt động trên địa bàn huyện
Tiên Du và Từ Sơn.
Nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại địa bàn, chi
nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam (sau đây gọi tắt là
chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn) sau ba năm hoạt động đã đóng góp rất lớn vào sự
nghiệp phát triển doanh nghiệp và Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Tuy nhiên, trong điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước đã có những bước phát triển mới, hệ thống doanh nghiệp trong
Khu Công nghiệp Tiên Sơn đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung, chi nhánh Khu
Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng phải đổi mới hoạt động của mình. Điều đó không chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp này mà còn là sự đòi hỏi của quá trình hội nhập và
thực hiện các hiệp định kinh tế song phương giữa nước ta với các nước khác trên thế giới.
Trước yêu cầu cấp bách đó, chủ đề "Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công
nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam" đã được tác giả lựa chọn làm đề tài
luận văn Thạc sĩ. Tác giả mong muốn thông qua bản luận văn này đóng góp một phần nhỏ
bé vào quá trình không ngừng đổi mới hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam nói
chung, chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng.
94 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu
Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công
thương Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế, lĩnh vực tài chính, ngân hàng có vai trò ngày một quan trọng hơn. Hệ thống ngân
hàng thương mại có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt đối với các địa bàn có khu công nghiệp mới hoạt động, nơi có nhiều doanh nghiệp đang
ở trong giai đoạn đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại đó, vai trò của các ngân hàng
thương mại còn quan trọng hơn, cung cấp vốn, dịch vụ ngân hàng và hỗ trợ thúc đẩy sự phát
triển của các doanh nghiệp.
Khu Công nghiệp Tiên Sơn là khu công nghiệp đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh được
thành lập từ ngày 18/12/1998. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp đầu tư vào khu công
nghiệp này là các ngành nghề có công nghệ cao, ngành công nghiệp sạch hoặc ít ô nhiễm
môi trường và có quy mô tương đối lớn. Mặt khác, các doanh nghiệp ở đây do đang trong
quá trình xây dựng và lắp đặt mới nhà xưởng, máy móc nên cần một lượng vốn lớn; do đó
rất cần sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng thương mại đang hoạt động trên địa bàn huyện
Tiên Du và Từ Sơn.
Nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại địa bàn, chi
nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam (sau đây gọi tắt là
chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn) sau ba năm hoạt động đã đóng góp rất lớn vào sự
nghiệp phát triển doanh nghiệp và Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Tuy nhiên, trong điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước đã có những bước phát triển mới, hệ thống doanh nghiệp trong
Khu Công nghiệp Tiên Sơn đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung, chi nhánh Khu
Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng phải đổi mới hoạt động của mình. Điều đó không chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp này mà còn là sự đòi hỏi của quá trình hội nhập và
thực hiện các hiệp định kinh tế song phương giữa nước ta với các nước khác trên thế giới.
Trước yêu cầu cấp bách đó, chủ đề "Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công
nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam" đã được tác giả lựa chọn làm đề tài
luận văn Thạc sĩ. Tác giả mong muốn thông qua bản luận văn này đóng góp một phần nhỏ
bé vào quá trình không ngừng đổi mới hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam nói
chung, chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài đổi mới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
đã có một số đề tài cấp Bộ, ngành, luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ đề cập ở những góc
độ, phạm vi khác nhau. Nhiều giải pháp và đề xuất trong các công trình khoa học trên đã
được ứng dụng vào thực tiễn hoạt động của các ngân hàng thương mại. Dưới góc độ đổi mới
hoạt động của ngân hàng thương mại, khía cạnh gần nhất với đề tài nghiên cứu, có thể kể ra
một số công trình khoa học sau:
Tác giả Lê Thị Hương (2003) với luận án tiến sĩ Kinh tế: "Nâng cao hiệu quả hoạt
động đầu tư của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam" đã thành công trong việc phát triển
các mô hình đánh giá hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các hoạt
động đầu tư chứng khoán và cho vay. Trong đó, tác giả tập trung đánh giá vào sự sinh lời
của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn 1996-2001. Tuy nhiên, luận án trên mới chỉ
đề cập đến khía cạnh vi mô của hệ thống ngân hàng thương mại.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn trong một đề tài liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ
của các ngân hàng thương mại nhà nước đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống cụ
thể tại Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tác giả đã phân tích và đánh giá thực trạng hoạt
động này dựa trên một nền tảng vững chắc của những lý thuyết hiện đại nhất. Theo đó, các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã được đề xuất một cách
có hệ thống và dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc.
Luận án tiến sĩ Kinh tế với đề tài "Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng
thương mại Nhà nước ở nước ta hiện nay", tác giả Lê Đức Thọ (2005) đã đề cập đến thực
trạng hoạt động tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại nhà nước và những tác
động tới quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Tác giả đã đề xuất các giải pháp đổi
mới hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam, phù hợp
với yêu cầu đổi mới và gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm
2010.
Ở mức độ chuyên sâu hơn, tác giả Nguyễn Hữu Tuấn đã đi sâu phân tích mặt chất
lượng của hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam. Luận án tiến sĩ Kinh tế với đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kinh
doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam" đã đánh giá toàn
diện các mặt của hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại nhà nước đặc thù này.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động kinh doanh của ngân hàng này. Tuy nhiên, với đặc thù riêng vốn có của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam nên hệ thống giải pháp trên khó có
thể đưa ra vận dụng vào các ngân hàng thương mại khác.
Trong các công trình khoa học kể trên, các tác giả đề cập đến sự đổi mới hoạt động
của ngân hàng thương mại bằng cách phân tích tính hiệu quả hoạt động của ngân hàng trên
các mặt khác nhau. Điều đó tạo ra sự chuyên sâu cần thiết nhưng thiếu đi sự toàn diện trong
khi các hoạt động hoặc dịch vụ của ngân hàng thương mại lại có sự hỗ trợ qua lại lẫn nhau.
Thực tế này đã thôi thúc tác giả đi vào phân tích một cách tổng thể những mặt khác nhau
của quá trình đổi mới hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng hoạt động, những
mặt thành công và những yếu kém, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt
động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ hơn một số vấn đề chung về hoạt động của ngân hàng
thương mại trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn từ ngày
thành lập đến nay, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân.
- Đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên
Sơn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên
Sơn.
Phạm vi nghiên cứu: Từ ngày thành lập chi nhánh (2004) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn gồm: Phương pháp so
sánh, phân tích kết hợp với phương pháp hệ thống hoá để đưa ra nhận xét đánh giá các vấn đề.
Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên
quan để làm sâu sắc hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài. Đề tài kết hợp những
vấn đề của kinh tế học hiện đại với tổng kết thực tiễn hoạt động của chi nhánh.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công
nghiệp Tiên Sơn từ ngày thành lập đến nay.
- Góp phần đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động của nó trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu
Công nghiệp Tiên Sơn.
Chương 1
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất phục vụ công
chúng. Lượng tài sản mà chúng nắm giữ lớn hơn bất cứ một trung gian tài chính nào. Mặt
khác, các ngân hàng còn có vai trò là chiếc cầu chuyển tiếp các chính sách kinh tế của chính
phủ (đặc biệt là chính sách tiền tệ) đến các chủ thể trong nền kinh tế. Sự khan hiếm tín dụng
ngân hàng thường dẫn đến chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và gia tăng thất nghiệp. Ngoài
ra, các biến động về tín dụng ngân hàng cũng có tác động mạnh mẽ đến lạm phát. Nguyên
nhân của nó là lượng tiền gửi ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn cung tiền tệ
được sử dụng bởi người dân. Hơn nữa, mối quan hệ giữa những thay đổi về cung tiền tệ và
giá cả hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế là chặt chẽ.
Tín dụng ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng là nhu cầu thiết yếu của tất cả các chủ
thể trong nền kinh tế. Các ngân hàng cung cấp phần lớn tín dụng tiêu dùng dưới hai hình
thức:
- Hình thức trực tiếp như các khoản vay được thương lượng và lệ phí tính theo thẻ
tín dụng do ngân hàng phát hành;
- Hình thức gián tiếp thông qua các khoản vay mua xe ôtô, đồ đạc nội thất, đồ điện
gia dụng và các loại hàng hoá tiêu dùng khác.
Những doanh nghiệp cần tín dụng thường liên hệ với một ngân hàng trước, đặc biệt
khi có nhu cầu vốn ngắn hạn để dùng vào việc mua hàng hoá, nguyên vật liệu hoặc phí sửa
chữa. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại, thông qua các phòng tín dụng của họ, còn là một
nguồn lực chính trong các thị trường trái phiếu và cổ phiếu công ty.
Ngân hàng theo nghĩa bình thường và truyền thống là một định chế tài chính cung
cấp hai loại dịch vụ chính cho công chúng:
- Tài khoản giao dịch được sử dụng để thanh toán việc mua hàng hoá và dịch vụ và
thường được chấp nhận rộng rãi bởi người dân về chức năng này;
- Cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân và các định chế khác [26, tr.
121].
Định chế tài chính gần gũi với định nghĩa này nhất là ngân hàng thương mại. Tài
khoản thanh toán của ngân hàng thương mại là hình thức thanh toán chủ yếu trong nền kinh tế
và được chấp nhận rộng rãi như là đồng tiền. Mặc dù ngân hàng thương mại có mua chứng
khoán đầu tư (như chứng khoán công ty và nhà nước) được giao dịch trên thị trường mở, nhưng
tài sản chủ yếu của ngân hàng là những khoản cho vay trực tiếp dành cho các doanh nghiệp, cá
nhân và gia đình.
Trong giai đoạn hiện nay, ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò to lớn đối với
nền kinh tế nói chung và đối với cộng đồng dân cư nói riêng. Tuy nhiên, việc định nghĩa ngân
hàng là gì lại đang trở nên khó khăn và nhầm lẫn. Hiển nhiên, chúng ta có thể định nghĩa ngân
hàng thông qua các dịch vụ mà chúng cung cấp cho nền kinh tế. Thế nhưng vấn đề này trở nên
phức tạp do không chỉ các chức năng của ngân hàng thương mại đang thay đổi mà chức năng
của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng đang không ngừng biến đổi.
Xu hướng phổ biến hiện nay là nhiều tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng bao
gồm công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty
bảo hiểm đều đang cố gắng cung cấp cho các khách hàng của mình những dịch vụ của ngân
hàng. Ngược lại, các ngân hàng cũng mở rộng phạm vi phục vụ của mình, hướng về phía đầu tư
bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương
hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác nhằm đối phó với các đối thủ cạnh tranh của mình.
Một ví dụ điển hình hiện nay ở nước ta là việc các công ty bảo hiểm và công ty
chứng khoán đang đệ đơn lên Ngân hàng Nhà nước xin thành lập ngân hàng của mình. Tập
đoàn Tài chính - Bảo hiểm Việt Nam đã có lộ trình hình thành ngân hàng của riêng mình,
trong khi đó, các ngân hàng cũng nhanh chóng tham gia thành lập các công ty bảo hiểm,
công ty đầu tư chứng khoán như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân
hàng Đầu tư phát triển và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt
Nam.
Xu hướng phát triển trên đây tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về pháp lý và đem
đến sự nhầm lẫn cho công chúng khi phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Do
đó, cách tiếp cận hợp lý và đúng đắn nhất là xem xét các tổ chức này trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo đó, ngân hàng được định nghĩa như sau:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế [25, tr. 7].
Sự phong phú về dịch vụ và chức năng của ngân hàng đã dẫn đến việc chúng được gọi là
các "bách hoá tài chính".
1.1.2. Vai trò, chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính tương tự như các hội tín dụng, các công
ty bảo hiểm và các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính khác. Thuật ngữ "trung gian tài chính"
được dùng để chỉ những công việc kinh doanh đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế đó là các cá nhân và tổ chức thiếu hụt chi tiêu, tức là phần chi cho tiêu
dùng và đầu tư lớn hơn thu nhập của họ, do đó cần bổ sung vốn từ bên ngoài bằng cách vay
mượn; các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn
các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Các bằng chứng
thực nghiệm cho thấy hai nhóm cá nhân và tổ chức trên khó có thể gặp nhau trực tiếp trên thị
trường, và họ thường không tin tưởng lẫn nhau. Điều đó đòi hỏi giữa họ cần có một tổ chức
trung gian đứng ra làm cầu nối. Các ngân hàng xuất hiện và nhận nhiệm vụ trung gian đó, thu
hút vốn của các nhóm "thặng dư" bằng các dịch vụ tài chính thuận lợi, và cho nhóm "thiếu hụt"
vay.
Hoạt động trung gian của ngân hàng sẽ diễn ra trong hai trường hợp sau:
- Thứ nhất, có được mức lợi nhuận kỳ vọng dương giữa thu nhập dự tính từ các
khoản cho nhóm "thiếu hụt" vay và lãi suất dự tính phải trả cho nhóm "thặng dư";
- Thứ hai, có được chênh lệch dương giữa các khoản tín dụng và lãi suất phải trả cho
tiền gửi và vốn vay từ nhóm "thặng dư". Nếu quan hệ giữa lãi suất cho vay và chi phí đi vay là
tương quan dương, nó sẽ làm giảm tính rủi ro của lợi nhuận dự tính, khuyến khích ngân
hàng tiếp tục huy động vốn để cho vay.
Một đóng góp quan trọng khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản
cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền.
Qua đó, các ngân hàng cung cấp sự đảm bảo cho các dự án đầu tư và đem lại nhiều phúc lợi
xã hội cho công chúng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, bên cạnh các chức năng, vai trò truyền thống,
ngân hàng thương mại còn có nhiều hoạt động dịch vụ và vai trò quan trọng khác, đó là khả
năng thẩm định thông tin. Một số người cho vay và người đi vay biết nhiều thông tin hơn những
người khác; một số cá nhân và tổ chức có các thông tin bên trong và điều này cho phép họ có
được những quyết định đầu tư đúng đắn và hiệu quả mang lợi nhuận cao. Sự khác biệt trong
khả năng tiếp cận và phân tích thông tin được gọi là tình trạng "thông tin không cân xứng". Sự
không cân xứng đó làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh
lợi to lớn cho ngân hàng thương mại, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các thông
tin tài chính và có khả năng lựa chọn những dự án với các yêu cầu rủi ro thấp nhưng lợi
nhuận hấp dẫn nhất.
Khả năng đặc biệt đó của ngân hàng đã dẫn đến một quan điểm mới trong việc lý
giải tại sao ngân hàng lại tồn tại trong xã hội hiện đại - lý thuyết quản lý uỷ thác. Hầu hết
người vay tiền và người gửi tiền đều muốn giữ bí mật tình trạng tài chính của họ, đặc biệt là
trước các đối thủ cạnh tranh. Lý thuyết này cho rằng các ngân hàng có thể thu hút người đi
vay bởi vì họ cam kết giữ bí mật. Thậm chí ngay những người gửi tiền cũng không có đặc
quyền được biết tình trạng tài chính của người vay tiền. Người gửi tiền thường không có
thời gian cũng như không có kỹ năng trong việc thẩm định người vay vốn. Do đó, họ đã
chuyển quá trình kiểm tra, thẩm định đến các ngân hàng, nơi đã đầu tư nhân lực, tài lực và
vật lực vào quá trình này. Ngân hàng hành động như là một đại lý của người gửi tiền, kiểm
tra điều kiện tài chính của khách hàng xin vay để đảm bảo cho việc người gửi tiền sẽ thu hồi
đủ vốn và lãi. Để đáp lại điều này, người gửi tiền phải trả một khoản phí cho ngân hàng, có thể
nhỏ hơn chi phí mà họ phải bỏ ra nếu họ tự thẩm định người vay vốn.
Trong nền kinh tế hiện đại, ngân hàng thực hiện nhiều chức năng khác nhau, được
thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng ngày nay
Nguồn: [25, tr.7].
1.1.3. Các khuynh hướng ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng
Thứ nhất, sự gia tăng nhanh chóng các loại hình dịch vụ
Áp lực của cạnh tranh từ các tổ chức trung gian tài chính khác, sự hiểu biết ngày
một cao của người tiêu dùng và những biến đổi căn bản trong công nghệ ngân hàng đã dẫn
đến sự đa dạng hoá các hình thức dịch vụ ngân hàng. Điều đó đã tạo ra những nguồn thu
mới cho ngân hàng - các khoản lệ phí của dịch vụ không phải trả lãi, một bộ phận có xu
hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay.
Chức năng uỷ thác Chức năng tín
Chức năng lập
kế hoạch đầu tư
Chức năng
thanh toán
Chức năng
tiết kiệm
Chức năng quản lý tiền mặt
Chức năng
đầu tư và bảo
lãnh
Chức năng bảo
Chức năng môi giới
NGÂN
HÀNG
HIỆN
ĐẠI
Thứ hai, áp lực của cạnh tranh
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi
ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các ngân hàng địa phương
cung cấp tín dụng, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là
những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín
dụng, các công ty kinh doanh chứng khoán như Bảo Việt Chứng khoán, Công ty chứng
khoán Sài gòn, các công ty tài chính như Vina Capital và các tổ chức bảo hiểm như Bảo
Việt, Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ
cho tương lai.
Thứ ba, giảm bớt sự kiểm soát của Chính phủ
Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc đẩy bởi sự nới
lỏng các quy định - giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ. Một trong những dấu hiệu
dễ nhận biết của quá trình này là việc Chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết kiệm
nhằm phân phối lại cho người dân một mức thu nhập tốt hơn từ khoản tiết kiệm của mình.
Cùng lúc đó, nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được phát triển giúp cho công chúng có thể
thu được lợi tức trên các khoản giao dịch. Gần như đồng thời, hiệp hội tín dụng và cho vay
cũng được mở rộng danh mục dịch vụ nhanh chóng và do đó khả năng cạnh tranh của
những tổ chức này cũng được củng cố và nâng cao. Các ngân hàng được nới rộng giới hạn
pháp lý, được cung cấp một số dịch vụ thuộc những tổ chức trung gian tài chính như: dịch
vụ bảo hiểm, dịch vụ đầu tư chứng khoán và tư vấn đầu tư.
Thứ tư, sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
Các quy định của Chính phủ đối với ngành ngân hàng tạo ra cho khách hàng khả
năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng nó mới chỉ là tiềm năng, chỉ có
công chúng mới chuyển hoá các cơ hội đó trở thành hiện thực. Tiền được gửi trong những
tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được
chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhậ