Hoạt động cấp nước là hoạt động có liên quan đến cả ba khâu sản xuất, cung cấp và
tiêu thụ nước sạch. Nước sạch là loại sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất,
dịch vụ của mọi tầng lớp dân cư. Trong thời gian qua, hoạt động cấp nước nhất là cấp
nước đô thị luôn nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các cấp bộ ngành và các nhà tài
trợ quốc tế. Đặc biệt, ngày 11/7/2007 Chính phủ ban hành nghị định số 117/2007/NĐ-CP
về sản xuất, cung ứng và tiêu thụ nước sạch là cơ sở cho tổ chức, quản lý cấp nước đô thị.
Sau gần 20 năm đổi mới, tốc độ đô thị hoá của cả nước nói chung, tỉnh Thanh Hoá
nói riêng phát triển rất nhanh. Năm 1989, dân số thành thị Thanh Hoá mới có 215,5 ngàn
người bằng 7,2% tổng số dân (2,99 triệu người), thì năm 2006 có 360,3 ngàn người bằng
9,8 % tổng số dân (3.68 triệu người) tăng 144,8 ngàn người, như vậy tăng 67,2% so với
năm 1989. Đây là một áp lực đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá.
Tính đến nay, Thanh Hoá đã có 18 dự án được triển khai với tổng vốn đầu tư
khoảng 314 tỷ đồng, nhằm thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2010 trong đó có cấp nước. Tổng công suất cấp nước đô thị hiện
nay là 65.410 m
3
/ngày, bảo đảm khoảng 90% dân số đô thị được cấp nước sạch với mức
89lít /người/ngày, tỷ lệ thất thoát nước sạch đã giảm xuống 30% so với 48% năm 1999. Đã
có 15 trong tổng số 30 thị trấn có hệ thống cấp nước tập trung với quy mô từ 500 -2000m
3
/ngày được xây dựng bằng nhiều nguồn vốn, nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngân
sách.
Những thành quả trên, cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành có liên quan và
công ty cấp nước Thanh Hoá đã nói lên tầm quan trọng cũng như mức độ cấp thiết của
nước sạch đô thị trong chiến lược chung nhằm phát triển kinh tế xã hội, bảo vệc sức khoẻ
cộng đồng, từng bước nâng cao mức sống dân cư. Tuy nhiên, hoạt động cấp nước có
những điều kiện đặc thù, bởi nước sạch đô thị là hàng hoá cá nhân được cung ứng công
cộng, cần được đầu tư vốn lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp, do đó việc xã hội hoá
hoạt động cấp nước gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gia
tăng dân số đô thị ngày càng cao đã tạo những áp lực rất lớn cho hoạt động cấp nước sạch
đô thị cả về số lượng và chất lượng.
111 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2562 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đổi mới quản lý hoạt động cấp
nước đô thị trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cấp nước là hoạt động có liên quan đến cả ba khâu sản xuất, cung cấp và
tiêu thụ nước sạch. Nước sạch là loại sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất,
dịch vụ của mọi tầng lớp dân cư. Trong thời gian qua, hoạt động cấp nước nhất là cấp
nước đô thị luôn nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các cấp bộ ngành và các nhà tài
trợ quốc tế. Đặc biệt, ngày 11/7/2007 Chính phủ ban hành nghị định số 117/2007/NĐ-CP
về sản xuất, cung ứng và tiêu thụ nước sạch là cơ sở cho tổ chức, quản lý cấp nước đô thị.
Sau gần 20 năm đổi mới, tốc độ đô thị hoá của cả nước nói chung, tỉnh Thanh Hoá
nói riêng phát triển rất nhanh. Năm 1989, dân số thành thị Thanh Hoá mới có 215,5 ngàn
người bằng 7,2% tổng số dân (2,99 triệu người), thì năm 2006 có 360,3 ngàn người bằng
9,8 % tổng số dân (3.68 triệu người) tăng 144,8 ngàn người, như vậy tăng 67,2% so với
năm 1989. Đây là một áp lực đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá.
Tính đến nay, Thanh Hoá đã có 18 dự án được triển khai với tổng vốn đầu tư
khoảng 314 tỷ đồng, nhằm thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2010 trong đó có cấp nước. Tổng công suất cấp nước đô thị hiện
nay là 65.410 m3/ngày, bảo đảm khoảng 90% dân số đô thị được cấp nước sạch với mức
89lít /người/ngày, tỷ lệ thất thoát nước sạch đã giảm xuống 30% so với 48% năm 1999. Đã
có 15 trong tổng số 30 thị trấn có hệ thống cấp nước tập trung với quy mô từ 500 -
2000m3/ngày được xây dựng bằng nhiều nguồn vốn, nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngân
sách.
Những thành quả trên, cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành có liên quan và
công ty cấp nước Thanh Hoá đã nói lên tầm quan trọng cũng như mức độ cấp thiết của
nước sạch đô thị trong chiến lược chung nhằm phát triển kinh tế xã hội, bảo vệc sức khoẻ
cộng đồng, từng bước nâng cao mức sống dân cư. Tuy nhiên, hoạt động cấp nước có
những điều kiện đặc thù, bởi nước sạch đô thị là hàng hoá cá nhân được cung ứng công
cộng, cần được đầu tư vốn lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp, do đó việc xã hội hoá
hoạt động cấp nước gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gia
tăng dân số đô thị ngày càng cao đã tạo những áp lực rất lớn cho hoạt động cấp nước sạch
đô thị cả về số lượng và chất lượng.
Sự phát triển của ngành cấp nước đô thị Thanh Hoá trong thời gian qua chưa theo
kịp với tốc độ đô thị hoá, chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và dân sinh. Nhiều dự
án cấp nước ở các thị trấn đầu tư không đồng bộ, đầu tư theo kiểu phong trào, quy hoạch
không hợp lý, hiệu suất thấp và năng lực quản lý kỹ thuật yếu kém. Những tồn tại trên do
nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan. Trong đó có vấn đề nổi cộm
như: cơ chế chính sách chưa phù hợp, phân cấp quản lý còn chồng chéo, mâu thuẫn; còn
bất cập nhất là về giá nước; thất thu thất thoát còn lớn , trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và
người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu, tổ chức mô hình cấp nước chưa phù hợp.
Thực hiện Nghị định 117/CP, tính khả thi còn nhiều điều phải xem xét lại như: quy hoạch
cấp nước đô thị có đảm bảo 5 năm, 10 năm, dài hạn là 20 năm sao cho phù hợp với quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển ngành.
Hoặc UBND tỉnh chỉ đạo việc chuyển giao các công trình cấp nước tại các thị trấn huyện
(đầu tư từ nguồn vốn nhà nước) cho công ty cấp nước tỉnh quản lý. Theo đó, đánh giá tài
sản nhất là đối với hệ thống ống nằm trong lòng đất đúng giá trị thực để bàn giao là điều
không dễ. Hiện tại quyền sở hữu tài sản còn chưa rõ ràng, các công ty cấp nước, UBND
tỉnh, thậm chí cả Chính phủ có thể giữ quyền sở hữu các phần tài sản khác nhau, tuỳ thuộc
vào nguồn tài chính tạo nên tài sản lúc đầu. Sẽ không phải là vấn đề lớn, như hiện nay khi
các công ty cấp nước do UBND tỉnh làm chủ sở hữu, nhưng nó sẽ là vấn đề quan trọng khi
thực hiện cổ phần hoá công ty cấp nước và hoạt động của công ty cấp nước ngày càng đi
theo định hướng thương mại.
Tất cả những lý do trên đặt ra yêu cầu cần đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô
thị tỉnh Thanh Hóa, đó là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn.
Là người tham gia quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp, trong đó có tham
mưu xây dựng giá nước sạch và đánh giá lại tài sản các công trình cấp nước tại các thị trấn
sắp tới, tác giả chọn đề tài "Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá" làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý hoạt động cấp nước đô thị thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu, nhiều tổ chức; ở nước ta đã có một số công trình, đề tài khoa học được công bố liên
quan đến hoạt động cấp nước đô thị. Có thể nêu một số công trình, đề tài chủ yếu như sau:
- Arjun Thapan - Ngân hàng phát triển Châu á (2002), Đổi mới cơ chế, chính sách
cho ngành cấp nước và về sinh đô thị Việt Nam trên quan điểm của Ngân hàng Châu á,
Tham luận hội thảo.
- Bộ Xây dựng (2003) Đề tài khoa học, Điều tra đánh giá thực trạng tình hình quản
lý chi phí nước sạch của một số đô thị lớn Việt Nam.
- Bộ Xây dựng (Vụ tổ chức cán bộ-2005) Dự án, Điều tra đánh giá thực trạng và tổ
chức năng lực của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực cấp thoát nước phục
vụ việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp.
- Bộ Xây dựng (2003), Báo cáo về Thực trạng quản ký Nhà nước đối với các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực cấp thoát nước tại các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
- Bùi Đức Hưng (2006), Luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý, Đổi mới quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực cấp nước đô thị ở Việt Nam.
- Công ty cấp nước Thanh Hoá (2002), Phương án Quản lý hệ thống cấp nước sạch
tại các huyện lỵ trong tỉnh.
- Công ty Nước và môi trường Việt Nam (2003), Dự án cải tạo, nâng công suất nhà
máy nước Mật sơn - Thanh Hoá từ 20.000m3/ngày,đêm lên 30.000m3/ngày, đêm (Nghiên
cứu khả thi).
- Đinh Tiến Dũng (2001), Thực trạng và tình hình giá tiêu thụ nước sạch hiện nay,
Tham luận hội nghị cấp nước toàn quốc lần thứ IV.
- Hội Cấp thoát nước Việt Nam (2002), Đổi mới cơ chế chính sách quản lý sản
phẩm công ích cấp nước, thoát nước và vệ sinh đô thị Việt Nam, Hội thảo quốc tế.
- Thanh Hà (2006), Hệ thống cấp nước đô thị: Cần một mô hình quản lý tổng hợp,
vietnamnet. Vn.
- Hồ Xuân Hùng (2002), Đổi mới cơ chế quản lý giá bán nước sạch để công ty cấp
nước chuyển sang kinh doanh, Tham luận hội thảo.
- Hội Cấp thoát nước Việt Nam (2003), Đổi mới tổ chức và phát triển nguồn nhân
lực ngành cấp nước và vệ sinh đô thị Việt Nam, Hội thảo quốc tế.
- Iize Gotelli- Chuyên gia thể chế ADB (2002), Đổi mới và quy định cho ngành
nước, Tham luận hội thảo.
- Lê Quang Vinh (2002), Đổi mới cơ chế chính sách quản lý cấp nước, Tham luận
hội thảo.
- Nghiên cứu mô hình quy hoạch và quản lý hiệu quả hệ thống cấp nước đô thị Việt
Nam, Vietnam/ Management.
- Nguyễn Văn Tình (2001), Tiếp tục hoàn thiện về quản lý và tổ chức nâng cao hiệu
quả cấp nước đô thị, Tham luận hội thảo.
- Trần văn Tá (2002), Đề xuất một số cơ chế, chính sách tài chính nhằm nâng cao
hiệu qủa hoạt động của các doanh nghiệp cấp nước theo tinh thần Nghị quyết TW3 khoá
IX , Tham luận hội thảo.
Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến đổi mới cơ chế quản lý một
số khía cạnh hoặc là cơ chế quản lý nói chung, hoặc là quản lý nhà nước ở tầm quốc gia
với nhiều cách tiếp cận lý giải khác nhau. Đối với tỉnh Thanh Hoá đã có một phương án tổ
chức hoạt động cấp nước; nội dung chủ yếu phản ánh tình hình thực hiện các dự án và vận
hành cấp nước ở các huyện thị hiện nay, đề xuất mô hình tổ chức và định hướng phát triển
của công ty cấp nước Thanh Hoá đến năm 2020.
Mặc dù các công trình nghiên cứu về hoạt động cấp nước đô thị trong và ngoài nước
khá đa dạng, nhiều cách tiếp cận, nhưng nội dung quản lý đối với hoạt động cấp nước đô thị
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, hiện chưa có công trình khoa học nào dưới dạng luận án, luận
văn từ thạc sỹ trở lên được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá đúng thực trạng, đề
xuất giải pháp đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ: + Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động cấp nước đô thị.
+ Phân tích thực trạng quản lý đối với hoạt động cấp nước đô thị ở Thanh Hoá, rút
ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô
thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị mà trọng tâm là
nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý hoạt động cấp nước
sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, chủ yếu là quy hoạch, đầu tư phát triển, quản lý
vận hành, bán nước sạch và sử dụng nước. Các vấn đề khác có đề cập chỉ để đảm bảo tính
hệ thống của đề tài nghiên cứu.
Thời gian: Khảo sát thực trạng từ 2002-2007; đề xuất giải pháp đến 2015 và một số
giải pháp dài hạn cho những năm tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu, trong đó, chủ yếu dùng
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, coi trọng mối liên hệ giữa lý luận,
quan điểm, đường lối của Đảng, tri thức khoa học kinh tế và kinh nghiệm thực tiễn phù
hợp với địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp thống kê, so sánh, điều tra mẫu, ý kiến chuyên gia có đối chiếu quy trình, quy phạm,
kinh nghiệm ở các địa phương trong nước và thế giới; phân tích so sánh kế thừa số liệu của
các công trình, dự án, tài liệu khoa học của các tác giả có liên quan đến đề tài luận văn.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá có bổ sung làm rõ cơ sở lý luận về nước sạch, quản lý hoạt động cấp
nước sạch đô thị.
- Đánh giá đúng thực trạng, đề xuất hệ thống giải pháp có căn cứ khoa học, có tính
thực tiễn và khả thi nhằm tiếp tục đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá.
- Là tài liệu tham khảo cho các ngành, các cấp tỉnh Thanh Hoá nghiên cứu các vần
đề có liên quan đến hoạt động cấp nước đô thị.
- Là tài liệu tham khảo giúp lãnh đạo Công ty cấp nước Thanh Hoá hoạch định đúng
hướng, hiệu quả để phát triển doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
những vấn đề lý luận cơ bản
về quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị
1.1. một số vấn đề chung về nước sạch và hoạt động cấp nước sạch đô thị
1.1.1. Khái niệm và tiêu chuẩn nước sạch
* Khái niệm nước sạch: Nước sạch là khái niệm chung cho các loại nước dùng
trong sinh hoạt, công nghiệp, công cộng... Theo nghị định 117/2007/NĐ-CP đưa ra khái
niệm: nước sạch là nước đã qua xử lý có chất lượng đảm bảo, đáp ứng yêu cầu sử dụng.
* Phân loại nước sạch: Có nhiều loại nước sạch với những tiêu chuẩn tuỳ thuộc vào
lĩnh vực sử dụng.
- Việc phân loại nước sạch tùy thuộc vào quan điểm của các quốc gia cũng như xây
dựng tiêu chuẩn đánh giá riêng biệt. Thông thường, nói đến nước sạch sẽ được hiểu là
nước sạch dùng cho sinh hoạt và ăn uống.
- Nước sạch trong các lĩnh vực cá biệt như y tế, hoá học được xây dựng theo chuẩn
riêng khác với nước sạch dùng trong các lĩnh vực khác.
- Phân loại nước sạch phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học và sự phát
triển kinh tế- xã hội. Mỗi quốc gia có tiêu chí phân loại nước sạch riêng biệt.
* Tiêu chuẩn nước sạch
- Đối với Việt Nam: Hiện tại, tiêu chuẩn nước sạch ở Việt Nam do Bộ Y tế ban hành
với 112 tiêu chí xác định. Theo đó, quy định tiêu chuẩn nước dùng trong ăn uống, chế biến
thực phẩm, dùng trong các cơ sở sản xuất; nước cấp theo đường ống từ nhà máy đến các
khu đô thị, nước cấp theo đường ống từ trạm cấp nước tập trung dùng cho từ 500 người trở
lên.
Trước đó, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 505/BYT/QĐ ngày 13/4/1992 về tiêu
chuẩn vệ sinh cấp nước cho ăn uống và sinh hoạt với 29 tiêu chí đánh giá (xem phụ lục 1).
- Đối với thế giới: Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ban hành tiêu chuẩn nước sạch cho
ăn uống và sinh hoạt với 30 tiêu chí cơ bản. Trong 30 tiêu chí của WTO có 10 tiêu chí
chưa có quy định cụ thể; các tiêu chí là thống nhất, không phân biệt thành thị, nông thôn,
nước mặt, nước ngầm. So với Việt Nam tiêu chuẩn của WTO có một vài khác biệt, nhưng
những tiêu chí cơ bản như độ pH, Asen , độ cặn hoà tan... là tương đồng (xem phụ lục 2).
Tiêu chuẩn nước sạch của WHO với các tiêu chí đánh giá chỉ có tính chất tham
khảo; mỗi quốc gia xây dựng theo một tiêu chí riêng, tuỳ từng điều kiện, đặc điểm của mỗi
nước. Qua các tiêu chuẩn nước sạch của WHO và Việt Nam cho thấy một mặt, hệ tiêu chí
đánh giá thông qua các chất không hoàn toàn giống nhau; mặt khác, trong cùng một chất
giống nhau nhưng hàm lượng cũng có những khác biệt nhất định.
1.1.2. Vai trò của nước sạch đối với con người
Tầm quan trọng của nguồn nước nói chung và nước sạch nói riêng không chỉ dừng
lại trong phạm vi quốc gia, lãnh thổ mà là vấn đề mang tính toàn cầu, là nội dung trong
chương trình nghị sự, đã và đang được bàn luận sôi nổi và thu hút sự quan tâm về tình
trạng cạn kiệt nguồn nước, tình trạng nước bị ô nhiễm, thiếu nước sạch ở một số nơi trên
thế giới luôn là nội dung mang tính thời sự trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thế
giới đã từng chứng kiến những đại dịch cướp đi sinh mạng hàng ngàn người bởi nguồn
nước bị ô nhiễm hay những khó khăn mà con người phải đối mặt khi nguồn nước khan
hiếm. Theo báo cáo của Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc, nguồn nước sạch toàn
cầu đang cạn kiệt. Nguyên nhân là do sự bùng nổ dân số, tình trạng ô nhiễm môi trường,
việc khai thác nguồn nước dưới đất vượt mức cho phép. Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Thời gian qua, chúng ta chứng kiến những "làng ung thư " ở Phú Thọ, Hải Phòng... mà báo
chí liên tục đưa tin, tình trạng nước nhiễm bẩn ở Hà Nội, Đà Nẵng... đã trực tiếp ảnh
hưởng đến cuộc sống, đến sức khoẻ, sự an toàn cá nhân và gây hoang mang trong dư luận
xã hội. Hiện mức độ ô nhiễm của các dòng sông Đáy- sông Nhuệ, sông Cầu và hạ lưu sông
Đồng Nai-Sài Gòn... đang trong tình trạng báo động. Nhiều hồ nước tiềm ẩn khả năng tích
luỹ ô nhiễm kim loại, các hợp chất hữu cơ ở rất nhiều nơi khiến cho nguồn nước mặt
không sử dụng được. Nguồn nước dưới đất tại miền Bắc, miền Trung và mới đây là đồng
bằng sông Cửu Long... cũng đang bị ô nhiễm asen một cách trầm trọng.
Chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài nguyên nước Quốc tế (IWRA) cho thấy, Việt Nam
đang và sẽ thiếu nước trong tương lai gần. Do vậy, bảo vệ tài nguyên nước là nhiệm vụ cấp
bách được đặt ra và cần quan tâm giải quyết trong giai đoạn hiện nay. Chiến lược Quốc gia
về tài nguyên nước đến năm 2020 cũng đã nêu rõ " bảo vệ tài nguyên nước và hệ sinh thái
thuỷ sinh" là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ chính thức.
Nước không đảm bảo tiêu chuẩn quy định, nói cách khác là nước vượt hàm lượng
tiêu chuẩn cho phép có thể dẫn đến những tác hại trước mắt cũng như lâu dài. Nếu như
một số chất hoà tan vượt quá tiêu chuẩn có thể dẫn đến tử vong như Thạch tín, thì một số
chất không gây ngộ độc hay tử vong ngay mà có thể ảnh hưởng đến các thế hệ tiếp theo đó
là Mangan hay Magiê. Lượng Amôniăc hay Sulphua vượt quá quy định sẽ gây mùi khó
chịu và là môi trường tốt cho vi khuẩn E.Coli gây bệnh; lượng sắt vượt quá quy định
không chỉ làm hỏng quần áo khi giặt giũ mà còn làm hỏng các thiết bị liên quan đến nước,
gây thiệt hại về kinh tế... Như vậy, để đảm bảo sức khoẻ của mỗi cá nhân, của cộng đồng,
đảm bảo môi trường xanh, sạch thì nước ăn uống và sinh hoạt phải được cấp theo tiêu
chuẩn quy định [30, tr.12].
1.1.3. Hoạt động cấp nước sạch đô thị
1.1.3.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động cấp nước sạch đô thị
- Hoạt động cấp nước: là các hoạt động có liên quan trong lĩnh vực sản xuất, cung
cấp và tiêu thụ nước sạch, bao gồm quy hoạch, tư vấn thiết kế, đầu tư xây dựng, tổ chức
vận hành, bán buôn nước sạch, bán lẻ nước sạch và sử dụng nước.
- Dịch vụ cấp nước: là các hoạt động có liên quan của tổ chức, cá nhân trong lĩnh
vực bán buôn nước sạch, bán lẻ nước sạch.
- Đơn vị cấp nước: là tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động khai thác, sản xuất,
truyền dẫn, bán buôn nước sạch và bán lẻ nước sạch.
- Khách hàng sử dụng nước: là tổ chức, cá nhân và hộ gia đình mua nước sạch của
đơn vị cấp nước.
- Hệ thống cấp nước tập trung hoàn chỉnh: là một hệ thống bao gồm các công trình
khai thác, xử lý nước, mạng lưới đường ống cung cấp nước sạch đến khách hàng sử dụng
nước và các công trình phụ trợ có liên quan.
- Mạng lưới cấp nước: là hệ thống đường ống truyền dẫn nước sạch từ nơi sản xuất
đến nơi tiêu thụ, bao gồm mạng cấp I, mạng cấp II, mạng cấp III và các công trình phụ trợ
có liên quan.
- Mạng cấp I: là hệ thống đường ống chính có chức năng vận chuyển nước tới khu
vực của vùng phục vụ cấp nước và tới các khách hàng sử dụng nước lớn.
- Mạng cấp II: là hệ thống đường ống nối có chức năng điều hoà lưu lưọng cho các
tuyến ống chính và đảm bảo sự làm việc an toàn của hệ thống cấp nước.
- Mạng cấp III: là hệ thống đường ống phân phối lấy nước từ các tuyến ống chính
và các ống nối dẫn nước tới các khách hàng sử dụng nước.
- Công trình phụ trợ: là các công trình hỗ trợ cho việc quản lý, vận hành, bảo
dưỡng, sửa chữa đối với hệ thống cấp nước như sân, đường, nhà xưởng, tường rào, trạm
biến áp, các loại hố van, hộp đồng hồ, họng cứu hoả...
- Thiết bị đo đếm nước: là thiết bị đo lưu lượng, áp lực bao gồm các loại đồng hồ đo
nước, đồng hồ đo áp lực và các thiết bị, phụ kiện kèm theo.
- Vùng phục vụ cấp nước: là khu vực có danh giới xác định mà đơn vị cấp nước có
nghĩa vụ cung cấp nước sạch cho các đối tượng sử dụng nước trong khu vực đó [18, tr.1].
- Cấp nước sạch đô thị: liên quan đến việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị,
quy định tại Nghị định 72/2001/NĐ-CP. Loại đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn
được các cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập gồm 6 loại, từ loại đặc biệt đến loại
5; cấp quản lý gồm thành phố trực thuộc trung ương, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh hoặc
trung ương và thị trấn trực thuộc huyện với các tiêu chí cụ thể về mật độ dân số, quy mô
dân số, kết cấu hạ tầng, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp...
Bảng 1.1: Phân loại đô thị ở Việt Nam
Đô thị loại Dạng Dân số Ghi chú
Đặc biệt Rất lớn Từ 1,5 triệu dân Hà Nội, Hồ Chí
Minh
1 T.P trực thuộc TW 0,5- 1,5 triệu dân 3 thành phố
2 Các thành phố thuộc
vùng, tỉnh
250 -500 nghìn dân 12 thành phố
3 Các thị xã tỉnh lỵ 100 - 250 nghìn 16 thị xã
4 Các đô thị loại 4 (tỉnh) 50 - 100 nghìn 58 đô thị
5 Các thị trấn 4 - 50 nghìn 612 thị trấn
Nguồn [14, tr.3].
1.1.3.2. Đặc điểm tài nguyên nước chi phối hoạt động cấp nước sạch đô thị
Ngoài các đặc điểm chung về tài nguyên nước trên cả nước đó là: nguồn tài nguyên
có hữu hạn nhưng nhu cầu đang tăng nhanh; chất lượng nước có nguy cơ bị ô nhiễm; tài
nguyên nước không chỉ có giá trị về cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, cho tưới
tiêu, mà còn là nguồn năng lượng sạch, nguồn vật liệu của rất nhiều ngành như thuỷ sản,
tiểu thủ công nghiệp... và đặc biệt là thuỷ điện. Đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị tài
nguyên nước là đầu vào chủ yếu, là nhân tố quyết định sự lựa chọn quy hoạch, kế hoạch
khai thác, lựa chọn trình độ công nghệ.
Tài nguyên nước bao gồm nước mưa, lượng trữ ẩm, nước sông, hồ, đầm lầy, nước
trong lòng đất và nước ở biển. Trong phạm vi đề tài, chỉ đề cập r