Trong lịch sử cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam quang vinh, luôn nêu cao bản chất cách mạng, là giai cấp lónh đạo
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó chỉ rừ:
Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đó
là người lónh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam
[36, tr.9].
Trải qua trên 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lónh đạo,
giai cấp công nhân nước ta đang có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu, thực sự là lực lượng to lớn, không ngừng khẳng định và củng
cố bản chất giai cấp, nêu cao ý thức, trỏch nhiệm, giữ vững vị trớ lónh đạo, là lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy vậy, khi bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, giai cấp công nhân đang đứng trước
những vấn đề bất cập: trước hết, cơ cấu, trỡnh độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp cũn thấp. í thức tổ chức kỷ luật lao động cũn nhiều hạn chế nờn chưa đáp ứng đũi
hỏi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đúng như Hội nghị Trung ương sáu khoá X
đã nhận định:
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ
cấu và trỡnh độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, cụng nhõn lành nghề; tỏc phong cụng nghiệp và kỷ luật lao
động cũn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có
hệ thống [15, tr.45].
Để tiếp tục làm trũn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, lónh đạo thắng lợi sự nghiệp cách
mạng của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới, xứng đáng là lực lượng cách mạng tiên
phong của toàn dân tộc thỡ việc xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Nằm ở phía tây nam của đất nước, thuộc đồng bằng sông Cửu Long tỉnh Kiên
Giang có diện tích tự nhiên 629.905ha, hơn 200 km đường bờ biển với diện tích vùng
biển là 63.000km
2
, có đường biên giới trên bộ với Campuchia, biên giới trên biển với
Campuchia, Thái lan, Malaysia; hơn nữa, Kiên Giang là địa phương có nguồn tài nguyên
- khoáng sản phong phú chủ yếu là các loại mỏ đá vôi vì vậy có tiềm năng to lớn để phát
triển mạnh nông nghiệp và nhiều ngành công nghiệp nhất là công nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng, sửa chữa và đóng mới tàu thuyền, công nghiệp chế biến thuỷ sản… cũng như
các ngành nghề dịch vụ - du lịch.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lónh đạo, kinh tế trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đó cú những chuyển biến theo hướng tích
cực; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đó cú sự tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là lực
lượng có vai trũ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh.
Tuy nhiên, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đội ngũ công nhân tỉnh
Kiên Giang cũn hạn chế về nhiều mặt: trỡnh độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề cũn thấp;
tỡnh trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động có trỡnh độ chuyên môn cao, tay nghề
giỏi; toàn tỉnh lao động qua đào tạo nghề mới đạt 13%; lũng say mờ nghề nghiệp, ý thức
tổ chức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp cũn yếu. Tỷ lệ đảng viên, đoàn viên
công đoàn, đoàn viên thanh niên trong công nhân cũn thấp, nhất là khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh; chưa phát huy vai trũ nũng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang .
Từ những vấn đề nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” cú ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn gúp phần nõng cao chất lượng đội ngũ công nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
103 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2111 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam quang vinh, luôn nêu cao bản chất cách mạng, là giai cấp lónh đạo
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó chỉ rừ:
Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đó
là người lónh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam
[36, tr.9].
Trải qua trên 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lónh đạo,
giai cấp công nhân nước ta đang có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu, thực sự là lực lượng to lớn, không ngừng khẳng định và củng
cố bản chất giai cấp, nêu cao ý thức, trỏch nhiệm, giữ vững vị trớ lónh đạo, là lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy vậy, khi bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, giai cấp công nhân đang đứng trước
những vấn đề bất cập: trước hết, cơ cấu, trỡnh độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp cũn thấp. í thức tổ chức kỷ luật lao động cũn nhiều hạn chế nờn chưa đáp ứng đũi
hỏi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đúng như Hội nghị Trung ương sáu khoá X
đã nhận định:
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ
cấu và trỡnh độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, cụng nhõn lành nghề; tỏc phong cụng nghiệp và kỷ luật lao
động cũn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có
hệ thống [15, tr.45].
Để tiếp tục làm trũn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, lónh đạo thắng lợi sự nghiệp cách
mạng của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới, xứng đáng là lực lượng cách mạng tiên
phong của toàn dân tộc thỡ việc xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Nằm ở phía tây nam của đất nước, thuộc đồng bằng sông Cửu Long tỉnh Kiên
Giang có diện tích tự nhiên 629.905ha, hơn 200 km đường bờ biển với diện tích vùng
biển là 63.000km2, có đường biên giới trên bộ với Campuchia, biên giới trên biển với
Campuchia, Thái lan, Malaysia; hơn nữa, Kiên Giang là địa phương có nguồn tài nguyên
- khoáng sản phong phú chủ yếu là các loại mỏ đá vôi vì vậy có tiềm năng to lớn để phát
triển mạnh nông nghiệp và nhiều ngành công nghiệp nhất là công nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng, sửa chữa và đóng mới tàu thuyền, công nghiệp chế biến thuỷ sản… cũng như
các ngành nghề dịch vụ - du lịch.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lónh đạo, kinh tế trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đó cú những chuyển biến theo hướng tích
cực; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đó cú sự tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là lực
lượng có vai trũ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh.
Tuy nhiên, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đội ngũ công nhân tỉnh
Kiên Giang cũn hạn chế về nhiều mặt: trỡnh độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề cũn thấp;
tỡnh trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động có trỡnh độ chuyên môn cao, tay nghề
giỏi; toàn tỉnh lao động qua đào tạo nghề mới đạt 13%; lũng say mờ nghề nghiệp, ý thức
tổ chức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp cũn yếu. Tỷ lệ đảng viên, đoàn viên
công đoàn, đoàn viên thanh niên trong công nhân cũn thấp, nhất là khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh; chưa phát huy vai trũ nũng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang .
Từ những vấn đề nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” cú ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn gúp phần nõng cao chất lượng đội ngũ công nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
2. Tỡnh hỡnh nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây ở Việt Nam, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch
sử của nó đó thu hỳt được quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và vấn đề này đã
được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu có các công trình:
* Các văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
(1994): Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X
(2008): Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Một số cụng trỡnh đó in thành sỏch:
- Viện công nhân và công đoàn - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2001): Xu
hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Lao động, Hà Nội.
- PGS, TS. Dương Xuân Ngọc (2004): Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- PGS, TS. Nguyễn Đăng Thành (2007), Góp phần xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam từ thực trạng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lónh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế. Nxb Lao động, Hà Nội.
- PGS, TS. Tạ Ngọc Tấn. GS, TS. Trương Giang Long. Ths. Trần Văn Lợi (2008),
Thực trạng đời sống văn hoá - tinh thần của công nhân ở vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam và vấn đề đặt ra. Nxb công an nhân dân, Hà Nội.
* Các bài báo khoa học:
- PGS, TS. Phan Thanh Khôi (2006), Đại hội X của Đảng với vấn đề liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tạp chí Lao động và
công đoàn, số 370 tháng 12 (kỳ 2), tr 4-5-35.
- TS. Dương Văn Sao (2007), Xõy dựng, phỏt huy vai trũ giai cấp cụng nhõn,
nhõn tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tạp chí Lao động và công đoàn, số 376 (kỳ 2), tr 2-3-35.
* Các luận văn, luận án:
- Nguyễn Văn Năm (1995), Cụng nhõn Hải Phũng trong cụng cuộc đổi mới những
vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết. Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ
nghĩa xó hội khoa học.
- Trần Ngọc Sơn (2001), Sự phỏt triển của giai cấp cụng nhõn Việt Nam và vai trũ
của nú trong sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hóa đất nước. Luận án tiến sĩ triết học,
chuyờn ngành chủ nghĩa xó hội khoa học.
- Phạm Hồng Hải (2002), Xây dựng đội ngũ công nhân Đồng Nai đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ
nghĩa xó hội khoa học.
- Nguyễn Thị Hường (2005), Đội ngũ cụng nhõn Thỏi Nguyờn với quỏ trỡnh cụng
nghiệp hoỏ, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xó hội khoa
học.
Kết quả nổi bật của các công trình nghiên cứu nêu trên đây thể hiện ở các nội dung
như sau:
- Đi sâu phân tích khái niệm giai cấp công nhân; những đặc trưng, vai trũ và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, nhất là trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội.
- Một số chủ trương, biện pháp cơ bản và cấp bách nhằm xây dựng giai cấp công
nhân ngang tầm nhiệm vụ mới.
Mặc dù vậy, cho đến nay, vấn đề công nhân vẫn cũn nhiều vấn đề cần được tiếp
tục triển khai nghiên cứu, làm rừ: khẳng định giai cấp công nhân vừa là chủ thể của nền
sản xuất công nghiệp đồng thời cũng là sản phẩm của nền sản xuất này nhưng môĩ một
tỉnh, thành phố đều có các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xó hội riêng, khác biệt với
các tỉnh, thành phố khác nên đặc điểm đội ngũ công nhân ở mỗi địa phương là không
giống nhau nhưng trên thực tế sự khác biệt giữa đội ngũ công nhân tại các địa phương
chưa được làm rừ; chỉ mới nêu được những đặc trưng cơ bản của đội ngũ công nhân nói
chung mà chưa chỉ ra được đặc trưng, nét đặc thù đội ngũ công nhân ở từng ngành nghề,
từng tỉnh, địa phương, đặc biệt là đội ngũ công nhân mới hỡnh thành tại các tỉnh đang thực
hiện quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ và các giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân vẫn
dừng lại ở những giải pháp mang tính phương hướng chung, chưa đưa ra được những giải
pháp đột phá phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng địa phương, từng ngành nghề cụ thể.
Chính vì vậy, việc triển khai đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” sẽ góp một phần khắc phục những hạn chế
nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khái quát về giai cấp công nhân và quá trỡnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá tỉnh Kiên Giang, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang, luận
văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh nhà.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rừ đặc điểm, số lượng, chất lượng, vai trò, những nhân tố tác động và những
vấn đề đặt ra đối với đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó đặt trọng tâm vào đội ngũ những công nhân trực tiếp
sản xuất và tham gia phục vụ trong các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng về giai cấp công nhân và công nghiệp hóa, hiện đại
hoá. Đồng thời, luận văn có kế thừa và sử dụng kết quả nghiờn cứu của một số cụng
trỡnh khoa học cú liờn quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như là
phương pháp luận chung.
Ngoài ra, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: khảo sát, điều
tra xó hội học, thống kờ, phõn tớch- tổng hợp... để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khẳng định đặc điểm nổi bật của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang là có quá
trỡnh ra đời sớm nhưng tính chất lao động công nghiệp vẫn đang trong quá trỡnh mới
hỡnh thành, và đội ngũ công nhân của tỉnh chủ yếu là lao động phổ thông sản xuất trong
lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác, chế biến thuỷ, hải sản là cơ sở làm rừ
thực trạng và vai trũ của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hoá.
- Nhấn mạnh việc giáo dục, đào tạo nghề thông qua việc liên doanh, liên kết giữa
các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp của tỉnh và của trung ương là một trong các giải pháp
chủ yếu nhằm từng bước xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
giảng dạy, học tập ở trường chính trị, các cơ quan, tổ chức làm công tác công đoàn trong
tỉnh Kiên Giang. Đồng thời là cơ sở cho việc hoạch định chính sách, đề ra kế hoạch, giải
pháp xây dựng đội ngũ công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
Chương 1
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH KIÊN GIANG
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ GIAI CẤP CễNG NHÂN VÀ QUÁ TRèNH CễNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TỈNH KIÊN GIANG
1.1.1. Về khái niệm giai cấp công nhân
Trong từ điển tiếng Việt thuật ngữ công nhân được hiểu là những người lao động
chân tay làm việc ăn lương [49, tr.202]. Đây là cách hiểu khái quát, phù hợp với các quan
niệm thường ngày của người dân trong xó hội mà chưa phải là một quan niệm khoa học.
Bởi lẽ, quan niệm này có hạn chế là chưa nêu bật được bản chất, nguồn gốc ra đời giai
cấp công nhân, chưa phân biệt sự đồng nhất và khác biệt giữa giai cấp cụng nhõn trong
xó hội tư bản và trong xó hội xó hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nếu quan niệm công nhân chỉ là
những người lao động chân tay để phân biệt với những người trí thức vốn là tầng lớp
những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hoá
thỡ cũng chưa thật sự đúng bởi người công nhân giờ đây không phải chí có lao động chân
tay mà đó lao động bằng máy móc, đồng thời họ cũng là những người công nhân được
“trí thức hoá”, có trí tuệ.
Từ thực tiễn lịch sử cho thấy quan niệm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác -
Lênin về giai cấp công nhân vẫn là những quan niệm khách quan , khoa học và đúng đắn,
bởi bản thân các ông không chỉ là người đó sống và làm việc trong xó hội tư bản chủ
nghĩa mà cũn là những người đó dành trọn cuộc đời để nghiên cứu về bản chất, nguồn
gốc ra đời, các xu hướng vận động phát triển của hiện tượng xó hội phức tạp này cũng
như đó phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người thủ tiêu giai cấp tư
sản và xây dựng thành cụng chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong rất nhiều tỏc phẩm của mỡnh, C.Mỏc và Ph.Ăngghen đó xem xột khỏi niệm
giai cấp cụng nhõn trờn tất cả cỏc khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng và các thuộc tính bản
chất nhất của nó. Ngay từ năm 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu giai cấp công nhân trong
tác phẩm “Gia đỡnh thần thỏnh” C.Mỏc đó đặt câu hỏi:
Vấn đề không phải ở chỗ hiện nay người vô sản nào đó, thậm chí toàn bộ
giai cấp vô sản, coi cái gì là mục đích của mình. Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô
sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản
buộc phải làm gì về mặt lịch sử. Mục đích của nó và nhiệm vụ lịch sử của nó được
tình hình sinh hoạt của bản thân nó cũng như toàn bộ tổ chức của xã hội tư sản
hiện đại, chỉ ra từ trước một cách rõ rệt nhất và không thể cối cãi được [28,
tr.56].
Xác định đúng giai cấp vô sản là gỡ và nhiệm vụ lịch sử của giai cấp đó do điều
kiện khách quan như tỡnh hỡnh sinh hoạt, cũng như toàn bộ tổ chức của xó hội tư sản
hiện đại là đóng góp to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Thực vậy trong cỏc tỏc phẩm của mỡnh, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn gắn
khái niệm giai cấp công nhân trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể. Các ông đã dùng nhiều
thuật ngữ đồng nghĩa để chỉ giai cấp công nhân như: “giai cấp vô sản”, “giai cấp công
nhân”, “giai cấp công nhân đại công nghiệp”, “giai cấp công nhân hiện đại”. Đồng thời,
các ông đều đề cập đến mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và nền công nghiệp hiện
đại, khẳng định giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, không ngừng lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu gắn với sự phát
triển của nền sản xuất hiện đại, mang tính chất xã hội hoá rộng lớn.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nói đến giai cấp công nhân là nói đến một cộng đồng
người chứ không phải là một cá nhân nào; hơn nữa, đề cập đến giai cấp công nhân không
phải là khu biệt nó mà phải xem xét trong mối quan hệ với lực lượng sản xuất xó hội, tức
là xác định vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất. Giai cấp công
nhân, theo các ông là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xó hội hoỏ, quốc tế
hoỏ cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người
thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác viết:
“Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công
cụ của mỡnh, cũn trong cụng xưởng thỡ người công nhân phải phục tùng máy móc”
[32, tr.605]. Như vậy, nói đến giai cấp công nhân là nói đến những tập đoàn người
bao gồm những công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp và phát
triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng:
“Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công
nghiệp, cũn giai cấp vụ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [28,
tr.610] hay “công nhân là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc
vậy…Công nhân Anh là đứa con đầu lũng của nền công nghiệp hiện đại…” [31,
tr.11].
Như vậy, giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển
của đại công nghiệp. Chính vỡ thế, giai cấp cụng nhõn là hiện thõn của lực lượng sản
xuất tiên tiến, hiện đại, và mang trong mỡnh những đặc trưng riêng có mà không một giai
tầng nào có được đó là tinh thần cách mạng triệt để, ý thức tổ chức kỷ luật, tỡnh đoàn kết
giai cấp quốc tế vô sảnMặt khác, khi giai cấp công nhân chưa giành được chính quyền
thỡ thõn phận của họ là thõn phận của những người làm thuê. Điều này đó diễn ra
trong thế kỷ XIX khi giai cấp công nhân - giai cấp những người làm thuê, do không
có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản
bóc lột giá trị thặng dư. Chính vỡ vậy, C.Mỏc và Ph.Ăngghen đó gọi giai cấp cụng
nhõn là giai cấp vụ sản. Và chớnh điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành
giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên giai
cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện
là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng
thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mỡnh để
kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ
món hàng nào khác; vỡ thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự
lờn xuống của thị trường [30, tr.605].
Phát triển học thuyết mới của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại mới, thời đại
đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại chủ nghĩa xó hội hiện thực. Lờnin đó
bổ sung, phỏt triển những thuộc tớnh mới của giai cấp công nhân. Theo Ông, giai cấp
cụng nhõn: “Là giai cấp thống trị về chớnh trị, giai cấp lónh đạo toàn xó hội trong cuộc
đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xó hội mới, trong toàn bộ cuộc
đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng phát triển của giai cấp vô sản là đi
tới chỗ tự thủ tiêu mỡnh với tư cách là giai cấp vô sản” [21, tr.34].
C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã viết:
Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô
sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp [30. tr.610].
Về sau, trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, C.Mác tiếp tục khẳng định:
“giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng so với giai cấp tư sản, bởi vì bản thân nó, tuy
lớn lên trên miếng đất của đại công nghiệp, nhưng lại muốn làm cho nền sản xuất trút bỏ
các tính chất tư bản chủ nghĩ