Trong năm qua, tuy phải đương đầu với những khó khăn thách thức nhưng đất 
nước ta đãgiành được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện, giữ vững ổn 
định kinh tế chính trị -xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế hàng đầu đều đạt và 
vượt kếhoạch, trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng đất nước được giữ vững. 
Tình hình hoạt động tiền tệ Ngân hàng có nhiều biến chuyển tích cực mặc dù phải 
chịu tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất lợi trong nước cũng nhưtrên thế 
giới. 
Cùng với xu thế này, trong những năm vừa qua , NHCT Đống Đa đã được đánh 
giá là một trong những Ngân hàng đãcó nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới 
của ngành, cơcấu tổ chức Ngân hàng được hoàn thiện hơn. Là một Ngân hàng 
thương mại, NHCT Đống Đa thực hiện rất nhiều nghiệp vụ, trong đónghiệp vụ 
duy trì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu là huy động vốn trung dài 
hạn để cho vay dự án đầu tưphát triển, nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án 
thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, kinh doanh tiền tệ tín dụng. Bên cạnh những 
thành công đã đạt được trong hoạt động cho vay tín dụng trung dài hạn các dự án 
đầu tư, Ngân hàng còn gặp không ít khó khăn và nhiều rủi ro. Chính vì vậy, để 
đảm bảo hiệu quả và an toàn cho vay đòi hỏi phải tích cực nâng cao chất lượng 
công tác thẩm định trước cho vay, đặc biệt là cho vay dự án đầu tư. Ho ạt động 
th ẩm định dự án đầu tư đang thực sự đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu đặt ra của 
NHCT Đống Đa trong năm tới là tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng này.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 82 trang
82 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đương đầu với các hiểm nguy tương lai do các nghiệp vụ quá khứ về tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Đương đầu với các hiểm nguy 
tương lai do các nghiệp vụ quá khứ về tài 
chính 
Lời nói đầu. 
Trong năm qua, tuy phải đương đầu với những khó khăn thách thức nhưng đất 
nước ta đã giành được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện, giữ vững ổn 
định kinh tế chính trị - xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế hàng đầu đều đạt và 
vượt kế hoạch, trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng đất nước được giữ vững. 
Tình hình hoạt động tiền tệ Ngân hàng có nhiều biến chuyển tích cực mặc dù phải 
chịu tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất lợi trong nước cũng như trên thế 
giới. 
Cùng với xu thế này, trong những năm vừa qua , NHCT Đống Đa đã được đánh 
giá là một trong những Ngân hàng đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới 
của ngành, cơ cấu tổ chức Ngân hàng được hoàn thiện hơn. Là một Ngân hàng 
thương mại, NHCT Đống Đa thực hiện rất nhiều nghiệp vụ, trong đó nghiệp vụ 
duy trì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu là huy động vốn trung dài 
hạn để cho vay dự án đầu tư phát triển, nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án 
thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, kinh doanh tiền tệ tín dụng. Bên cạnh những 
thành công đã đạt được trong hoạt động cho vay tín dụng trung dài hạn các dự án 
đầu tư, Ngân hàng còn gặp không ít khó khăn và nhiều rủi ro. Chính vì vậy, để 
đảm bảo hiệu quả và an toàn cho vay đòi hỏi phải tích cực nâng cao chất lượng 
công tác thẩm định trước cho vay, đặc biệt là cho vay dự án đầu tư. Hoạt động 
thẩm định dự án đầu tư đang thực sự đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu đặt ra của 
NHCT Đống Đa trong năm tới là tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng này. 
Từ thực tế như vậy, với mong muốn góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển của 
Ngân hàng – nơi cá nhân thực tập, em lựa chọn đề tài : 
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi 
nhánh NHCT Đống Đa” làm chuyên đề tốt nghiệp. 
Chuyên đề gồm 3 chương cơ bản : 
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư 
Chương III : Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu 
tư tại chi nhánh NHCT Đống Đa 
Do hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế cũng như tài liệu sử dụng nên nội 
dung chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến 
đóng góp bổ ích của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng để đề tài ngày càng 
hoàn thiện hơn. 
 Em xin trân trọng cảm ơn! 
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư. 
1.1. Khái niệm về đầu tư và dự án đầu tư 
1.1.1 . Đầu tư 
a. Khái niệm đầu tư. 
Hoạt động đầu tư (gọi tắt là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực tài chính, 
lao động , tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc 
gián tiếp tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của 
nền kinh tế nói chung, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ của ngành, cơ quan 
quản lý và xã hội nói riêng.Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư trực tiếp và gián tiếp. 
Hoạt động đầu tư gián tiếp là hoạt động bỏ vốn trong đó người đầu tư không trực 
tiếp tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra. 
Hoạt động đầu tư trực tiếp là hoạt động trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia 
điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chia ra thành 2 loại đầu tư chuyển dịch 
và đầu tư phát triển. Trong đó: 
- Nâng cấp các hoạt động đó vì mục tiêu phát triển thực chất. Nó tạo ra của 
cải vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm Đầu tư chuyển dịch là 
hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền để mua lại một số lượng đủ lớn cổ phiếu 
của một doanh nghiệp nhằm tham gia nắm quyền điều hành hoạt động sản xuất 
kinh doanh của doanh nghiệp đó. 
- Đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn nhằm gia tăng giá trị tài sản, tạo ra 
những năng lực sản xuất , phục vụ mới bao gồm: xây dựng các công trình mới, các 
hoạt động dịch vụ mới, cải tạo mở rộng cải thiện đời sống người lao động. 
Có thể nói đầu tư phát triển đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong nhiều 
năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn 
và vốn nằm đọng trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư(viết tắt là DAĐT). 
Các thành quả của loại đầu tư này cần được sử dụng trong nhiều năm, đủ để các lợi 
ích thu được tương ứng và lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra. Chỉ có như vậy thì 
công cuộc đầu tư mới được coi là có hiệu quả. 
b. Đặc trưng của đầu tư 
Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm hoạt động đầu tư, chúng ta đi sâu phân tích 
các đặc trưng cơ bản của hoạt động này: 
- Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước hết 
là quyết định tài chính. 
Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình thức khác nhau nhưng 
vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường 
được xem xét trên phương diện tài chính (khả năng sinh lời, tổn phí, có khả năng 
thu hồi được hay không…). Trên thực tế, các quyết định đầu tư cân nhắc bởi sự 
hạn chế của ngân sách nhà nước, địa phương, cá nhân và được xem xét từ các khía 
cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có khả thi ở các phương diện khác (kinh tế – 
xã hội) nhưng không khả thi về phương diện tài chính vì thế cũng không thể thực 
hiện được trên thực tế. 
- Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài. 
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác, đầu tư 
luôn là hoạt động có tính chất lâu dài. Do đó, mọi sự trù liệu đều là dự tính và chịu 
một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố biến đổi tác động. Chính điều này 
là một trong những vấn đề then chốt phải tính đến trong nội dung phân tích, đánh 
giá của quá trình thẩm định dự án. 
- Hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi 
ích trước mắt và lợi ích trong tương lai. 
Đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh đổi lấy lợi 
ích trong tương lai. Vì vậy, luôn có sự so sánh cân nhắc giữa hai loại lợi ích này và 
nhà đầu tư chỉ chấp nhận trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn 
lợi ích hiện này họ phải hy sinh - đó là chi phí cơ hội của nhà đầu tư. 
- Hoạt động đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro. 
Các đặc trưng nói trên đã cho ta thấy đầu tư là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi 
ro do chịu xác suất nhất định của yếu tố kinh tế – chính trị – xã hội – tài nguyên 
thiên nhiên…Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và lại thực hiện trong một thời gian 
dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá 
trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Tuy nhiên, nhận thức rõ điều này nên nhà đầu 
tư cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi 
ro là ít nhất. 
Những đặc trưng nói trên cũng đặt ra cho người phân tích, đánh giá dự án chẳng 
những quan tâm về mặt nội dung xem xét mà còn tìm các phương pháp, cách thức 
đo lường, đánh giá để có những kết luận giúp cho việc lựa chọn và ra quyết định 
đầu tư một cách có căn cứ. 
c. Vai trò của đầu tư. 
Từ sau Đại hội Đảng lần VI, với chủ trương chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung 
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã có những 
tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, tỉ lệ lạm phát dừng lại ở 
mức thấp, đặt biệt kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng…cùng với sự chuyển mình 
của đất nước cũng như việc thực hiện đa dạng, đa phương hoá các phương thức sản 
xuất kinh doanh đã làm cho chúng ta hoà nhập hơn, thân thiện hơn với bạn bè quốc 
tế. Theo đó, tư duy về kinh tế của mỗi người dân đều thay đổi. Chính vì vậy mà 
người ta đã biết đến đầu tư như là một yếu tố quan trọng cần thiết. Hay nói khác đi, 
đầu tư cũng giống như một chiếc chìa khoá để chiến thắng trong cạnh tranh sinh 
tồn. 
Tăng trưởng và phát triển bền vững là phương hướng, mục tiêu phấn đấu của mọi 
quốc gia. Để đạt được điều đó cần quan tâm giải quyết các nhân tố ảnh hưởng đến 
sự tăng trưởng là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ. Thông qua hoạt 
động đầu tư, các yếu tố đó sẽ được khai thác, huy động và phát huy một cách tối đa 
để từ đó tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực mới cho sự tăng trưởng và phát 
triển kinh tế. 
Đối với nền kinh tế, đầu tư có tác động rất lớn đến tổng cung và tổng cầu. Do đầu 
tư tác động không hoàn toàn phù hợp về mặt thời gian đối với nhịp độ phát triển 
nên mỗi sự thay đổi tăng hoặc giảm của đầu tư đều cùng lúc vừa là yếu tố duy trì 
sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. 
Với những nước có tỉ lệ đầu tư lớn thì tốc độ tăng trưởng cao. Ngược lại khi tỉ lệ 
đầu tư càng thấp thì tốc độ tăng trưởng và mức độ tích luỹ càng thấp. Trong nền 
kinh tế quốc dân, để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý thì vấn đề đầu tiên có tính 
chất then chốt là phải thực hiện đầu tư và phân bổ vốn một cách hợp lý. Có như 
vậy mới tạo ra được sự dịch chuyển về cơ cấu do mỗi ngành, mỗi thành phần kinh 
tế đều có thế lực và tiềm năng riêng. Ngoài ra, kinh nghiệm của các nơi trên thế 
giới cho thấy con đường tất yếu để có thể phát triển nhanh là tăng cường đầu tư 
vào phát triển khu công nghiệp thương mại du lịch và dịch vụ. 
Đối với một doanh nghiệp thì đầu tư cũng đóng vai trò quyết định đến sự tồn vong 
và phát triển. Trong nền kinh tế hiện nay, doanh nghiệp được coi là các tế bào chủ 
yếu nhất cho sự phát triển chung. Để thành lập nên một doanh nghiệp thì điều đầu 
tiên là phải có vốn đầu tư. Nó là một trong những yếu tố thiết yếu để có thể tạo 
dựng nên nền móng cơ sở vật chất ban đầu cho doanh nghiệp. Ngay cả sau khi 
doanh nghiệp đã được thành lập thì việc phát triển hay lụi tàn đến mức nào đó 
cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư. 
1.1.2. Dự án đầu tư. 
a. Khái niệm dự án đầu tư (DAĐT) 
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì “DAĐT là một tập hợp các 
hoạt động đặc thù nhằm tạo nên một thực tế mới có phương pháp trên cơ sở các 
nguồn lực nhất định”. 
ở Việt Nam, khái niệm DAĐT được trình bày trong nghị định 52/1999 NĐ-CP về 
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản: “ DAĐT là tập hợp các đề xuất có liên 
quan tới việc bỏ vốn để tạo vốn, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất 
định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao 
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thơì gian nhất định”. 
• Về mặt hình thức: DAĐT là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi 
tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết 
quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. 
• Về mặt nội dung: DAĐT là một tập hợp các hoạt động có liên quan với 
nhau nhằm đạt được những mục đích đã đề ra thông qua nguồn lực đã xác định 
như vấn đề thị trường, sản phẩm, công nghệ, kinh tế , tài chính… 
Vậy, DAĐT phải nhằm việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào để thu được 
đầu ra phù hợp với những mục tiêu cụ thể. Đầu vào là lao động, nguyên vật liệu, 
đất đai, tiền vốn… Đầu ra là các sản phẩm dịch vụ hoặc là sự giảm bớt đầu vào. Sử 
dụng đầu vào được hiểu là sử dụng các giải pháp kỹ thuật công nghệ, biện pháp tổ 
chức quản trị và các luật lệ… 
Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì DAĐT cũng gồm những thành phần chính 
sau: 
+ Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án: Khi thực hiện dự án, sẽ mang lại 
những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho chủ đầu tư nói riêng. 
+ Các kết quả: Đó là những kết quả có định lượng được tạo ra từ các hoạt động 
khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu của dự 
án. 
+ Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án 
để tạo ra các kết quả nhất định, cùng với một lịch biểu và trách nhiệm của các bộ 
phận sẽ được tạo thành kế hoạch làm việc của dự án. 
+ Các nguồn lực: Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các 
nguồn lực về vật chất, tài chính và con người. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn 
lực này chính là vốn đầu tư cho các dự án. 
+ Thời gian: Độ dài thực hiện DAĐT cần được cố định. 
DAĐT được xây dựng phát triển bởi một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai 
đoạn này vừa có mối quan hệ gắn bó vừa độc lập tương đối với nhau tạo thành chu 
trình của dự án. Chu trình của dự án được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn chuẩn 
bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn vận hành kết quả. Giai đoạn 
chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề quyết định sự thành công hay thất bại ở giai đoạn sau, 
đặc biệt đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. 
Đối với chủ đầu tư và nhà tài trợ, việc xem xét đánh giá các giai đoạn của chu trình 
dự án là rất quan trọng. Nhưng đứng ở các góc độ khác nhau, mỗi người có mối 
quan tâm và xem xét các giai đoạn và chu trình cũng khác nhau. Chủ đầu tư phải 
nắm vững ba giai đoạn, thực hiện đúng trình tự. Đó là điều kiện để đảm bảo đầu tư 
đúng cơ hội và có hiệu quả. 
b. Vai trò của DAĐT. 
Vai trò của DAĐT được thể hiện cụ thể ở những điểm chính sau: 
- Đối với chủ đầu tư: dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu 
tư. DAĐT được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở nghiên cứu đầy 
đủ về các mặt tài chính, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý. Do đó, chủ đầu tư sẽ 
yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện dự án vì có khả năng mang lại lợi 
nhuận và ít rủi ro. Mặt khác, vốn đầu tư của một dự án thường rất lớn, chính vì vậy 
ngoài phần vốn tự có các nhà đầu tư còn cần đến phần vốn vay ngân hàng. Dự án 
là một phương tiện rất quan trọng giúp chủ đầu tư thuyết phục ngân hàng hoặc các 
tổ chức tín dụng xem xét tài trợ cho vay vốn. DAĐT cũng là cơ sở để chủ đầu tư 
xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. 
Quá trình này là những kế hoạch mua sắm máy móc thiết bị, kế hoạch thi công, 
xây lắp, kế hoạch sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, dự án còn là căn cứ để đánh giá 
và điều chỉnh kịp thời những tồn đọng vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư, 
khai thác công trình. 
- Đối với Nhà nước: DAĐT là cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước xem xét, 
phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách Nhà nước sử dụng để 
đầu tư phát triển theo kế hoạch thông qua các dự án các công trình, kết cấu hạ tầng 
kinh tế – xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, cac DAĐT quan 
trọng của quốc gia trong từng thời kỳ. Dự án sẽ được phê duyệt, cấp giấy phép đầu 
tư khi mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã 
hội của đất nước, khi hoạt động của dự án không gây ảnh hưỏng đến môi trường 
và mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội. Dự án được phê duyệt thì các bên liên q uan 
đến dự án phải tuân theo nội dung, yêu cầu của dự án. Nếu nảy sinh mâu thuẫn, 
tranh chấp giữa các bên liên quan thì dự án là một trong những cơ sở pháp lý để 
giải quyết. 
- Đối với nhà tài trợ: Khi tiếp nhận dự án xin tài trợ vốn của chủ đầu tư thì họ 
sẽ xem xét các nội dung cụ thể của dự án đặc biệt về mặt kinh tế tài chính, để đi 
đến quyết định có đầu tư hay không. Dự án chỉ được đầu tư vốn nếu có tính khả thi 
theo quan điểm của nhà tài trợ. Ngược lại khi chấp nhận đầu tư thì dự án là cơ sở 
để các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn thành kế 
hoạch đầu tư đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn. 
1.2. Thẩm định dự án đầu tư 
1.2.1. Khái niệm thẩm định dự án đầu tư 
Đối với mỗi DAĐT, từ khi lập xong đến khi thực hiện phải được thẩm định qua 
nhiều cấp: Nhà nước, nhà đầu tư, nhà đồng tài trợ… Đứng dưới mỗi giác độ, có 
những định nghĩa khác nhau về thẩm định. Nhưng hiểu một cách chung nhất thì: 
 “Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan và toàn diện 
các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành, khai thác và tính sinh 
lợi của công cuộc đầu tư” 
Cụ thể theo cách phân chia các giai đoạn của chu trình DAĐT, ta thấy ở cuối Bước 
1 có khâu “Thẩm định và ra quyết định đầu tư”. Đây là bước mà chủ đầu tư phải 
trình hồ sơ nghiên cứu khả thi lên các cơ quan có thẩm quyền để xem xét quyết 
định và cấp giấy phép đầu tư và cấp vốn cho hoạt động đầu tư. 
Dưới góc độ là người cho vay vốn, các Ngân hàng thương mại (viết tắt là NHTM) 
khi nhận được bản luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ tiến hành thẩm định theo các chỉ 
tiêu và ra quyết định là có cho vay hay không cho vay. Sau đó là đi đến “đàm 
phán và ký kết hợp đồng”. Như vậy có thể hiểu thẩm định DAĐT trong Ngân hàng 
là thẩm định trước đầu tư hay thẩm định tín dụng. Nó được đánh giá là công tác 
quan trọng nhất. 
1.2.2. ý nghĩa của công tác thẩm định DAĐT 
+ Đối với nền kinh tế : Xét trên phương diện vĩ mô để đảm bảo được tính thống 
nhất trong hoạt động đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, tạo ra một tốc độ tăng trưởng 
mạnh mẽ, đồng thời tránh được những thiệt hại và rủi ro không đáng có thì cần 
phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư cơ bản. Thẩm định 
DAĐT chính là một công cụ hay nói cách khác đó là một phương thức hữu hiệu 
giúp nhà nước có thể thực hiện được chức năng quản lý vĩ mô của mình. Công tác 
thẩm định sẽ được tiến hành thông qua một số cơ quan chức năng thay mặt nhà 
nước để thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư như: Bộ kế hoạch đầu 
tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài Chính, Bộ khoa học công nghệ và môi trường…cũng như 
các UBND tỉnh, thành phố, các bộ quản lý ngành khác. Qua việc phân tích DAĐT 
một cách hết sức toàn diện, khoa học và sâu sắc, các cơ quan chức năng này sẽ có 
được những kết luận chính xác và rất cần thiết để tham mưu cho nhà nước trong 
việc hoạch định chủ trương đầu tư, định hướng đầu tư và ra quyết định đầu tư đối 
với dự án. Trong thực tế, để tạo điều kiện cho các cơ quan thẩm định dự án, các 
DAĐT được chia ra làm một số loại cụ thể. Trên cơ sở phân loại này, các sự phân 
cấp trách nhiệm trong khâu thẩm định và xét duyệt. Các DAĐT phải đảm bảo tính 
chính xác và được nhanh chóng phê duyệt. Hiện nay, các công tác quản lý đầu tư 
trên lãnh thổ Việt nam được thực hiện theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, 
ban hành và kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ban hành 08/07/1999 của 
Thủ tướng Chính phủ – Nghị định số 12/2000/NĐ - CP ban hành 05/05/2000. 
Theo những Nghị định này, các ngân hàng đã cụ thể hoá chức năng của mình 
nhằm nâng cao hiệu quả về quản lý phân cấp đầu tư. 
+ Đối với NHTM: Cũng như các doanh nghiệp khác, trong cơ chế thị trường hoạt 
động của NHTM phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan trong 
đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến kết 
quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại và cạnh tranh là một quá trình diễn ra 
liên tục. Các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng. NHTM 
trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh, khả năng xảy ra 
rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ loại hình hoạt động này của ngân hàng như rủi ro 
tín dụng, thanh toán, chuyển hoán vốn, lãi suất, hối đoái…Trong đó rủi ro về tín 
dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn là rủi ro mà hậu quả của nó có thể tác 
động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác thậm chí đe doạ sự tồn tại của 
ngân hàng. 
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng xảy ra khi xuất hiện các biến cố 
làm cho bên đối tác (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình 
đối với ngân hàng vào thời điểm báo hạn. Các khoản nợ đến hạn nhưng khách 
hàng không có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ thuộc về một trong hai trường hợp: 
khách hàng sẽ trả nợ ngân hàng nhưng sau một thời gian kể từ thời điểm báo hạn, 
như vậy ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro đọng vốn, hoặc khách hàng hoàn toàn không 
thể trả nợ cho ngân hàng được, trường hợp này ngân hàng gặp rủi ro mất vốn. 
Như vậy rõ ràng trong nền kinh tế thị trường, thẩm định dự án là vô cùng quan 
trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực tiễn hoạt động của các NHTM 
Việt Nam một số năm vừa qua cho thấy bên cạnh một số DAĐT có hiệu quả đem 
lại lợi ích to lớn cho chủ đầu tư và nền kinh tế, còn rất nhiều dự án do chưa được 
quan tâm đúng mức đến công tác thẩm định trước khi tài trợ đã gây ra tình trạng 
không th