Khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ người ta cũng quan tâm đến 
hiệu quả của hoạt động đó, hiệu quả chính là mục tiêu cũng là động lực phát triển của bất cứ 
một nền kinh tế xã hội nào, đặc biệt là trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị 
trường, khi mà các doanh nghiệp phải tự hạch toán, lấy thu bù chi đảm bảo có lãi thì vấn đề 
hiệu quả luôn  được các doanh nghiệp  đặt lên hàng  đầu. Hiệu quả hoạt  động của doanh 
nghiệp thể hiện thông qua chỉ tiêu kinh tế cụ thể là lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh 
toàn bộ kết quả  hoạt  động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp hoạt 
động có hiệu quả thì mức lợi nhuận đạt được là rất lớn, từ đó doanh nghiệp có điều kiện mở 
rộng sản xuất và ngược lại khi hoạt  động không có hiệu quả thì doanh nghiệp không có lợi 
nhuận  thậm chí còn bị thua lỗ có thể dẫn tới phá sản.  Điều này không chỉ gây hậu quả xấu 
đối với doanh nghiệp mà đối với cả nền kinh tế. Chính vì vậy, vấn đề lợi nhuận và phấn đấu 
tăng lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, cũng như của các nhà quản 
lý kinh tế. Trong thời gian qua các ngân hàng ở nước ta  đã cố gắng và không ngừng cải 
thiện chất lượng phục vụ cũng như đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ nhằm đạt mục tiêu tối 
đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được các ngân hàng vẫn gặp phải 
những khó khăn cần tháo gỡ đặc biệt là trong công tác tín dụng. Có thể nói đây là hoạt động 
chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nếu thiếu nó các ngân hàng không thể tồn tại và 
phát triển cho đến ngày hôm nay. 
Các ngân hàng hoạt  động chủ yếu dựa vào việc  đi vay và cho vay, để việc cho vay 
đạt hiệu quả buộc các ngân hàng phải rất chú trọng  đến công tác tín dụng nhằm  đảm bảo 
cho ngân hàng vừa kinh doanh có lãi mà vẫn duy trì sức cạnh tranh trên thị trường, chính vì 
vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng và nâng cao tính hiệu quả của nó là một vấn đề hết sức 
cấp thiết cần được nghiên cứu xem xét. Do có ý nghĩa quan trọng như vậy nên hoạt động tín 
dụng  đã dành  được nhiều sự quan tâm  đặc biệt của các nhà kinh tế, các nhà quản lý ngân 
hàng,  các nhà đầu tư...Nó cũng  đang còn là  đề tài của nhiều cuộc trao  đổi thảo luận hay 
diễn đàn kinh tế mà vẫn chưa đạt tới một chuẩn mực chung nhất và có hiệu quả cao nhất.
Với kiến thức  được trang bị trên ghế nhà trường, những kinh nghiệm thực tế thu 
được trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng  ĐT&PT Hà Thành cùng với sự 
hướng dẫn tận tình của thầy giáo, thạc sỹ Hoàng  đình Chiến em  đã quyết  định lựa chọn  đề 
tài:
” Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT 
Hà Thành”
Em hy vọng với  đề tài này em sẽ  đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình vào 
việc mở rộng và hoàn thiện công tác tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt  động kinh 
doanh tại Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Thành nói riêng và các ngân hàng thương mại ở 
nước ta nói chung.
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chuyên đề được trình bày theo 3 chương:
Chương 1:  Lý luận chung về lợi nhuận và sự cần thiết phải mở rộng hoạt  động tín dụng 
trong hệ thống các ngân hàng ở nước ta.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Thành.
Chương 3:  Một số giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt  động tín dụng tại Chi nhánh ngân 
hàng ĐT&PT Hà Thành
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 46 trang
46 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2140 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt 
động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng 
ĐT&PT Hà Thành 
LờI Mở Đầu 
 Khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ người ta cũng quan tâm đến 
hiệu quả của hoạt động đó, hiệu quả chính là mục tiêu cũng là động lực phát triển của bất cứ 
một nền kinh tế xã hội nào, đặc biệt là trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị 
trường, khi mà các doanh nghiệp phải tự hạch toán, lấy thu bù chi đảm bảo có lãi thì vấn đề 
hiệu quả luôn được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu. Hiệu quả hoạt động của doanh 
nghiệp thể hiện thông qua chỉ tiêu kinh tế cụ thể là lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh 
toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp hoạt 
động có hiệu quả thì mức lợi nhuận đạt được là rất lớn, từ đó doanh nghiệp có điều kiện mở 
rộng sản xuất và ngược lại khi hoạt động không có hiệu quả thì doanh nghiệp không có lợi 
nhuận thậm chí còn bị thua lỗ có thể dẫn tới phá sản. Điều này không chỉ gây hậu quả xấu 
đối với doanh nghiệp mà đối với cả nền kinh tế. Chính vì vậy, vấn đề lợi nhuận và phấn đấu 
tăng lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, cũng như của các nhà quản 
lý kinh tế. Trong thời gian qua các ngân hàng ở nước ta đã cố gắng và không ngừng cải 
thiện chất lượng phục vụ cũng như đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ nhằm đạt mục tiêu tối 
đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được các ngân hàng vẫn gặp phải 
những khó khăn cần tháo gỡ đặc biệt là trong công tác tín dụng. Có thể nói đây là hoạt động 
chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nếu thiếu nó các ngân hàng không thể tồn tại và 
phát triển cho đến ngày hôm nay. 
 Các ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa vào việc đi vay và cho vay, để việc cho vay 
đạt hiệu quả buộc các ngân hàng phải rất chú trọng đến công tác tín dụng nhằm đảm bảo 
cho ngân hàng vừa kinh doanh có lãi mà vẫn duy trì sức cạnh tranh trên thị trường, chính vì 
vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng và nâng cao tính hiệu quả của nó là một vấn đề hết sức 
cấp thiết cần được nghiên cứu xem xét. Do có ý nghĩa quan trọng như vậy nên hoạt động tín 
dụng đã dành được nhiều sự quan tâm đặc biệt của các nhà kinh tế, các nhà quản lý ngân 
hàng, các nhà đầu tư...Nó cũng đang còn là đề tài của nhiều cuộc trao đổi thảo luận hay 
diễn đàn kinh tế mà vẫn chưa đạt tới một chuẩn mực chung nhất và có hiệu quả cao nhất. 
 Với kiến thức được trang bị trên ghế nhà trường, những kinh nghiệm thực tế thu 
được trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Thành cùng với sự 
hướng dẫn tận tình của thầy giáo, thạc sỹ Hoàng đình Chiến em đã quyết định lựa chọn đề 
tài: 
” Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT 
Hà Thành” 
 Em hy vọng với đề tài này em sẽ đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình vào 
việc mở rộng và hoàn thiện công tác tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh 
doanh tại Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Thành nói riêng và các ngân hàng thương mại ở 
nước ta nói chung. 
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chuyên đề được trình bày theo 3 chương: 
Chương 1: Lý luận chung về lợi nhuận và sự cần thiết phải mở rộng hoạt động tín dụng 
trong hệ thống các ngân hàng ở nước ta. 
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Thành. 
Chương 3: Một số giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân 
hàng ĐT&PT Hà Thành. 
chương 1 
Lý LUậN CHUNG Về LợI NhuậN và sự cần thiết phảI mở rộng hoạt động tín dụng 
trong hệ thống các ngân hàng ở nước ta 
1.1. Lý luận chung về lợi nhuận 
 1.1.1. Khái niệm lợi nhuận: 
 Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhìn 
dưới góc độ ngân hàng lợi nhuận là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà 
ngân hàng bỏ ra để có được doanh thu đó. 
 Lợi nhuận nói chung được xác định như sau: 
 Lợi nhuận= doanh thu – chi phí 
 Trong đó: 
 Doanh thu là toàn bộ những khoản tiền thu được do các hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng mang lại. Trong cơ chế thị trường, hoạt động của các ngân hàng là rất đa dạng và 
phong phú để đáp ứng với nhu cầu phát triển chung của xã hội. Vì vậy doanh thu của doanh 
nghiệp bao gồm nhiều loại khác nhau như: lãi cho vay, chênh lệch mua bán ngoại tệ, phí 
bảo lãnh, bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán v.v… 
 Chi phí là những khoản chi mà ngân hàng bỏ ra để có được các khoản thu đó. Chi phí 
của ngân hàng cũng bao gồm nhiều loại như: chi phí trả lãi cho các khoản tiền gửi, tiền vay, 
những khoản chi để trả cho người lao động (lương, phụ cấp và các khoản trích theo lương 
như BHXH, BHYT, KPCĐ…) và các khoản chi mà ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ với 
nhà nước theo luật định thông qua nộp thuế v.v… 
 Doanh thu mà ngân hàng thu được trước hết được bù đắp cho phần chi phí mà ngân 
hàng bỏ ra, phần còn lại chính là lợi nhuận của ngân hàng. 
 1.1.2. ý nghĩa của lợi nhuận: 
 Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của mọi hoạt động kinh doanh. Không chỉ trong lĩnh 
vực ngân hàng mà với bất cứ doanh nghiệp sản xuất nào cũng vậy lợi nhuận luôn đóng vai 
trò vô cùng quan trọng, nó là mục tiêu mang tính chất sống còn đối với các doanh nghiệp 
nếu không đạt được mức lợi nhuận tối thiểu các ngân hàng thương mại nói riêng và các 
doanh nghiệp nói chung không thể tồn tại và phát triển. 
 - Đối với ngân hàng ngoài ý nghĩa chính lợi nhuận còn cho thấy một số ý nghĩa khác 
cũng không kém phần quan trọng: 
 Thứ nhất: Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh 
doanh của toàn hệ thống ngân hàng. Thông qua việc phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu 
lợi nhuận của ngân hàng, người quản lý có thể xem xét đánh giá các mặt hoạt động kinh 
doanh của ngân hàng từ đó có thể đưa ra các kế hoạch, các quyết định quản lý trong thời 
gian tới. 
 Thứ hai: Lợi nhuận là nguồn tài chính quan trọng để ngân hàng thực hiện việc mở rộng 
quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao 
của thị trường, đồng thời lợi nhuận cũng giúp cho ngân hàng bù đắp những rủi ro trong kinh 
doanh, thực hiện khuyến khích bằng cách cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần 
cho người lao động. 
 Thứ ba: Khi các ngân hàng làm ăn có hiệu quả, lợi nhuận tăng ngân hàng sẽ thực hiện 
nghĩa vụ của mình đối với nhà nước thông qua việc nộp thuế. Nhà nước cũng sẽ có nguồn 
thu quan trọng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước, thực 
hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống cho 
nhân dân điều này cũng sẽ tác động ngược trở lại đối sự phát triển của ngân hàng. Đây là 
mối quan hệ rất khăng khít tạo nên sự phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế. 
 Xuất phát từ các ý nghĩa trên có thể thấy được vai trò vô cùng quan trọng của lợi 
nhuận, vấn đề còn lại đặt ra đối với các ngân hàng hiện nay đó là phải có biện pháp như thế 
nào hữu hiệu nhất để có thể nâng cao lợi nhuận của ngân hàng. Có rất nhiều biện pháp khác 
nhau để tăng lợi nhuận như: Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, thực hiện tốt 
hoạt động Marketing nhằm thu hút thật nhiều khách hàng đến với ngân hàng, mở rộng quy 
mô hoạt động của ngân hàng tạo điều kiện đáp ứng cho mọi nhu cầu của các đối tượng khác 
nhau trong nền kinh tế v.v... Tuy nhiên do đặc thù của ngân hàng là hoạt động kinh doanh 
tiền tệ, lợi nhuận thu được chủ yếu chính là sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất 
cho vay cho nên phương hướng cơ bản và thiết thực nhất để tăng lợi nhuận cho ngân hàng 
chính là từ việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. 
1.2. Sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng trong hệ 
thống các ngân hàng 
 1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng: 
 Tuỳ theo từng cách tiếp cận khác nhau ta có những khái niệm khác nhau, theo cách 
đơn giản nhất: Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa 
người đi vay và người cho vay, hoặc có thể khái niệm tín dụng theo quan điểm của các nhà 
kinh tế học hiện đại: Tín dụng là dựa trên cơ sở lòng tin, nghĩa là người cho vay tin tưởng 
vào người đi vay sẽ sử dụng vốn hiệu quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi. 
 Mặc dù có nhiều khái niệm về tín dụng theo cách diễn đạt khác nhau nhưng có thể nêu 
một cách tổng quát như sau: Tín dụng bao gồm các hoạt động chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, 
cho thuê. Nó được hiểu là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn và 
lãi sau một thời gian nhất định. 
 Ngân hàng với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ra đời do sự phát triển của 
nền sản xuất xã hội cùng với nhu cầu vốn lớn cho mọi lĩnh vực, đồng thời lượng tiền nhàn 
rỗi trong xã hội cũng phát triển. Với sự phát triển của ngân hàng và nhu cầu cần thiết của 
nền kinh tế cho nên tín dụng Ngân hàng ra đời nhằm cải thiện các vấn đề về khối lượng cho 
vay, thời hạn cho vay và phạm vi cho vay. Vì vậy, tín dụng Ngân hàng trở nên thường 
xuyên và phổ biến. 
 Như đã nói ở trên: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên 
là ngân hàng- một tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ- với một bên là các tổ 
chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay”. 
 Nói đến tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả “đi vay” lẫn “cho vay”. Tuy nhiên, trên 
thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà hoạt động nhận tiền gửi không 
được gọi là hoạt động tín dụng mà là hoạt động “huy động vốn”, do bộ phận Nguồn vốn 
thực hiện. Bộ phận tín dụng chuyên làm nhiệm vụ cho vay, như vậy tín dụng ngân hàng ở 
đây mang nghĩa hẹp hơn, chỉ giới hạn bên cho vay là ngân hàng. 
 Vậy ta có thể có khái niệm chung nhất về tín dụng ngân hàng: “Tín dụng ngân hàng là 
quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là 
các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào 
một thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận”. 
 1.2.2. Bản chất của tín dụng ngân hàng 
 Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua các ngân 
hàng. Ngân hàng với các hình thức huy động vốn khác nhau sẽ huy động các nguồn tiền 
nhàn rỗi trong lưu thông, đồng thời sử dụng chính nguồn tiền này đem cho vay các tổ chức 
kinh tế với lãi suất lớn hơn lãi suất huy động, phần chênh lệch giữa chúng ngân hàng được 
thụ hưởng. 
 Do đó ngân hàng đòi hỏi phải có sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong 
nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu 
dùng và đầu tư vượt quá mức thu nhập vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) các 
cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản 
chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá 
nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ được chuyển 
từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy, thu nhập gia tăng là 
động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hại nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện 
phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan 
hệ tín dụng. Như vậy, ngân hàng bằng hoạt động của mình đã góp phần điều hoà việc sử 
dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế nói chung sao cho 
phù hợp và đạt hiệu quả cao, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong 
xã hội. 
 1. 2.3. Phân loại tín dụng 
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục 
tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại: 
1.2.3.1. Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng) 
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên 
quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của 
khách hàng. theo thời gian, tín dụng được phân thành: 
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống. 
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm. 
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm. 
Tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong một năm. Do vậy, ngân 
hàng cho vay ngắn hạn với thời hạn từ một năm trở xuống. 
Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị 
chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ trên 1 năm tới 5 năm. 
Công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, 
thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể lên tới 10 hoặc 30 năm. 
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp 
đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản 
tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được 
phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian 
mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng. 
Có khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách 
hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền 
gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong 
trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. 
Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời hạn bảo 
lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh. 
Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc 
khách hàng hoàn đủ tiền thuê. 
1.2.3.2. Phân loại theo hình thức: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê. 
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương 
ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương 
phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải cho vay 
đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân 
hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác 
định trước được coi là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực 
chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. 
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải 
hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. 
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng 
của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy 
tín của mình để thu lợi. 
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những 
thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân 
hàng. 
1.2.3.3.Phân loại theo tài sản đảm bảo 
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ 
hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất ( từ quá trình sản xuất kinh 
doanh) không có hoặc không đủ. 
Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng chính uy tín của 
khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. 
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình 
đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. 
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, 
thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra 
tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các 
khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm 
bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những 
khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng… 
cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. 
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp 
đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo 
(quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba..), 
có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc khả năng bảo quản tài sản đảm bảo. 
1.2.3.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro 
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để 
chia lại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ 
thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, 
chứng khoán. Cách phân loại này giúp cho ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an 
toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. 
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao. 
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách 
hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách 
hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính… 
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn có thời hạn ngắn và 
khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn… 
- Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tàI sản thế chấp nhỏ hoặc 
bị giảm giá, khách hàng chây ì… 
1.2.3.5. Phân loại khác 
Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…) 
Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định). 
Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…). 
Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên hoá trong cho vay của ngân 
hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy 
trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. 
1.2.4. Sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng 
1.2.4.1. Tín dụng đối với nền kinh tế 
 Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh 
tế, nó chính là yếu tố thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Cụ thể: 
* Tín dụng ngân hàng là công cụ để quản lý tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi 
trong xã hội, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. 
Thật vậy, tín dụng ngân hàng đã thông qua hoạt động huy động vốn của mình để tập 
trung lại các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi hay chưa được sử dụng trong các cá nhân, tổ chức 
kinh tế. Từ đấy tín dụng ngân hàng sẽ dịch chuyển vốn tới những nơi thiếu vốn, nhờ có tín 
dụng ngân hàng mà các doanh nghiệp đã có thể kịp thời bổ xung nguồn vốn thiếu hụt của 
mình cho quá trìng sản xuất kinh doanh, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn 
ra liên tục, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. 
* Tín dụng ngân hàng là công cụ để điều hoà lưu thông tiền tệ và thông qua đó để 
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 
Tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh 
tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số trượt giá của đồng tiền để đầu tư vào 
các ngành, các công trình trọng điểm…, thông qua việc cho vay các ngành trong nền kinh 
tế, hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng ngân hàng này có ý nghĩa kinh tế là nó 
không làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên không làm ảnh hưởng đến lưu thông 
tiền tệ và giá cả thị trường. Nếu tín dụng ngân hàng thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, 
điều khiển chúng một cách có hiệu quả sẽ đảm bảo khối lượng tiền cung ứng phù hợp. Vì 
khi cho vay, ngân hàng sẽ đưa tiền vào lưu thông phù hợp với lượng hàng hoá trên thị 
trường, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế. 
* Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành kinh tế kém phát triển 
và những ngành kinh tế mũi nhọn. 
Thực hiện cho vay hay tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển 
của các ngành này sẽ tạo cơ hội, cơ sở thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển hay những 
ngành kinh tế kém phát triển nhưng cần thiết cho xã hội bằn