Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong tiến trình phát triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất,
nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh nghiệp Nhà nước và các
HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các
doanh nghiệp và chính sách giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị
trường hoạt động cũ bị thu hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu
thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện chuyển hướng
trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là "nông nghiệp, nông thôn và nông
dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có
mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn.
Vốn tín dụng Ngân hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản
xuất kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu
nhập cho người nông dân.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH - HĐH nông
nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách để phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có
chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc
mở rộng cho vay hộ sản xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động
này, món vay nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ
trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn
mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng nhất là trong môi trường
kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước.
90 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất ở NHNO & PTNT huyện Từ Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong tiến trình phát triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất,
nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh nghiệp Nhà nước và các
HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các
doanh nghiệp và chính sách giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị
trường hoạt động cũ bị thu hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu
thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện chuyển hướng
trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là "nông nghiệp, nông thôn và nông
dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có
mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn.
Vốn tín dụng Ngân hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản
xuất kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu
nhập cho người nông dân.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH - HĐH nông
nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách để phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có
chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc
mở rộng cho vay hộ sản xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động
này, món vay nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ
trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn
mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng nhất là trong môi trường
kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ sản xuất và vai trò của TDNH đối với
việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao
chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo
& PTNT huyện Từ Liêm. Từ đó, tìm ra những mặt còn tồn tại, trên cơ sở đó có những
giải pháp tháo gỡ khó khăn và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất, mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị để thực hiện giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Với tính đa dạng, phức tạp của đề tài, cho nên chỉ tập trung nghiên cứu những vấn
đề thực tiễn cụ thể trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
trong năm 1998 - 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá, phân tích tổng hợp, diễn giải, quy
nạp, phân tích thống kê, so sánh.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn vận dụng vào
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
5. Kết cấu khoá luận :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương.
Chương I : Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện
Từ Liêm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh
tế hộ sản xuất.
Chương I
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với
hộ sản xuất.
I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường :
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác
định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà
kinh tế bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô hình
kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã
đánh dấu thời kỳ thay đổi, thái độ đối với hộ sản xuất trong hệ thống lý thuyết chính
thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời.
1. Khái niệm hộ sản xuất :
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy
rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xất nông
nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục
phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số khái niệm khác nhau về hộ sản xuất , trong
một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người
cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó cùng hộ sản xuất là hộ, hộ gia đình.
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng sự nghiệp CNH -
HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong qúa trình xây dựng một nền kinh tế đa thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp
với chủ trương của Đảng và Nhà nước , NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1
kèm theo quyết định 499A ngày 2/ 9/ 1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được hiểu
như sau : "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh,
là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất của mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm : hộ nông dân, hộ
tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất
hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp và PTNT, các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng
trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều
ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta
trong thời gian qua.
2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường:
Từ khi NQ 10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị
kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông
thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm
canh, tăng vụ, vừa đổi mới cơ cấu sản xuất, việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã
khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất
để có hiệu quả kinh tế lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ
sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế , là đơn vị tích tụ vốn, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
a. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh
tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp theo là giai đoạn chuyển
biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt
động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ
gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất
hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển.
b. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn.
Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất , lao động là
nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc
gia. Việt Nam có 80 % dân số sống ở nông thôn, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn
nhân lực này còn đang ở mức thấp do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 13
triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng
chưa được sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân
đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Như vậy, để sử dụng hợp lý nguồn lao
động, giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra
bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
c. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất
hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh
tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải
quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế
nào để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải
không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số
biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả
kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng
đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến tốn
kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến
khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu
cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị
trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất :
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn, chúng ta tiến
lên CHXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp
trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương
chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát
triển kinh tế nông thôn.
Tháng 1/ 1981 Ban bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán cho nông
nghiệp, thực chất là giải phóng "tự do hoá" sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân
thoát khỏi sự giàng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác
định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng
nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí của nó.
Tháng 4/ 1988 - Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước
quan điểm đổi mới của Đại hội 6 đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho
việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây nộ nông dân được thừa
nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở
nông thôn.
Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 của HĐBT ngày 2/ 3/ 1992
cùng luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 ngày 29/ 3/ 1998, luật công ty. .. thì hộ sản
xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.
Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 :
"kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ 7 của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Chủ trương đúng đắn của Đại hội 7 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
nước ta nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/ 1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá 7) Đảng đã ban hành nghị quyết TW 5,
tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn
được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản
phẩm.
Nghị quyết TW 5 cùng các văn bản luật, NĐ của Chính phủ đã tạo hành lang pháp
lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển mạnh
nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp nông
thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí
quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Nghị quyết TW 6 lần 1 với
chủ trương "tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhất là CNH -
HĐH nông nghiệp nông thôn " đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai
trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh
tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế , kinh tế hộ được khuyến khích
phát triển : "kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan
trọng".
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất:
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ
vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong
nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : Tín dụng thương mại, tín dụng
Ngân hàng , tín dụng Nhà nước , tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung.
Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ chức tín
dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo
nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn
huy động để cấp tín dụng"
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác"
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình thức tín
dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền,
vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình
thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ sản
xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng
với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ
xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có
tài sản thể chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín
dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng điều kiện
vay vốn Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, hạch toán kinh
tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn
và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/ CP ngày 2/ 3/ 1993 của thủ tướng Chính phủ,
thông tư 01/ TD - NH ngày 26/ 3/ 1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn
thực hiện nghị định 14 CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm
ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ- TTG của Thủ tướng chính phủ,
văn bản số 320/ CV- NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện quy định
trên, văn bản số 791/ NHNN - 06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
thực hiện một số chính sách Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp
sau đó một loạt các thông tư, văn bản của Ngân hàng Nhà nước ra đời như văn bản số
283/ QĐ - NHNN14 ngày 25/ 8/ 2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân hàng, văn
bản 284 QĐ - NHNN1 ngày 25/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban
hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ.
Thông tư số 10 NHNN1 ngày 31/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng
dẫn thực hiện giải pháp về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo QĐ số 11/
2000/ NQ- CP của Chính phủ ngày 31/ 7/ 2000. Quyết định số 06/ HĐQT - NHNo &
PTNT Việt Nam về việc quy định cho vay đối với khách hàng mới gần đây nhất ngày 18/
1/ 2001 thay cho quyết định 180 cũ. Từ đó đã giải quyết cơ bản những khó khăn thắc
mắc về cơ chế thủ tục tạo môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển. Với các
văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng.
Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở
rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức
tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên thị
trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh
doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra
đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân
hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của
nền kinh tế hàng hoá.
Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh
bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo
thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá
trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hoá
sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu
hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ
vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị
và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp
của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về
vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài
nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất , hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho
mọi người.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng
trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu
cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành
một thị trường to lớn của tín dụng Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất
trong dư nợ của NHNo ngày càng tăng.
b. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập t