Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ 
chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập đầy đủ hơn là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt 
được mục tiêu này trong điều kiện hầu hết các nguồn lực trở nên khan hiếm thì bắt buộc 
các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào tiết kiệm, 
hiệu quả. Chỉ trên cơ sở SXKD với hiệu quả cao, doanh nghiệp mới có thể đứng vững. 
Đối với các NHTM, tín dụng là một hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn 
nhất. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, trong chiến lược kinh doanh của mình, đòi hỏi mỗi 
ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức và chính sách tín dụng hợp lý, 
hiệu quả. Vì vậy, vấn đề hiệu quả hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu, việc 
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là yêu cầu bức xúc đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng 
tới trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung.
Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất lương thực, thực phẩm cho con người và cung 
cấp nguyên liệu cho các ngành nghề khác nên có vai trò quan trọng trong quá trình phát 
triển kinh tế xã hội của quốc gia. Việt Nam là nước có gần 80% dân số sống ở nông thôn, 
thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp nên NNNT càng có vai trò quan trọng. Bộ mặt 
NNNT Việt Nam trong những năm qua có những bước chuyển biến đáng kể, nhiều hộ gia 
đình ở nông thôn đã thoát nghèo và trở nên giàu có, cơ cấu kinh tế NNNT có những thay 
đổi theo hướng sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, trên thực tế NNNT hiện đang tồn tại những 
hạn chế đó là: thiếu vốn, đầu tư thấp, sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân còn 
nhiều khó khăn. Vì thế, nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực NNNT rất lớn, cần thiết phải 
tăng cường đầu tư vốn cho NNNT, hơn nữa, vốn đầu tư đó phải được khai thác và sử dụng 
một cách hiệu quả mới giải quyết được hạn chế này. Trong các kênh vốn đầu tư cho 
NNNT, kênh TDNH được xem là kênh quan trọng nhất. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động 
TDNH sẽ là một trong những cơ sở quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH, 
nhất là quá trình CNH, HĐH NNNT theo tinh thần của Nghị quyết của Hội nghị Trung 
ương lần thứ năm, khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, 
nông thôn thời kỳ 2001-2010.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 108 trang
108 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2117 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động 
tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và 
Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối 
với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 
Mở Đầu 
 1. Tính cấp thiết của đề tài 
Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ 
chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập đầy đủ hơn là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt 
được mục tiêu này trong điều kiện hầu hết các nguồn lực trở nên khan hiếm thì bắt buộc 
các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào tiết kiệm, 
hiệu quả. Chỉ trên cơ sở SXKD với hiệu quả cao, doanh nghiệp mới có thể đứng vững. 
Đối với các NHTM, tín dụng là một hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn 
nhất. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, trong chiến lược kinh doanh của mình, đòi hỏi mỗi 
ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức và chính sách tín dụng hợp lý, 
hiệu quả. Vì vậy, vấn đề hiệu quả hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu, việc 
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là yêu cầu bức xúc đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng 
tới trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung. 
 Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất lương thực, thực phẩm cho con người và cung 
cấp nguyên liệu cho các ngành nghề khác nên có vai trò quan trọng trong quá trình phát 
triển kinh tế xã hội của quốc gia. Việt Nam là nước có gần 80% dân số sống ở nông thôn, 
thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp nên NNNT càng có vai trò quan trọng. Bộ mặt 
NNNT Việt Nam trong những năm qua có những bước chuyển biến đáng kể, nhiều hộ gia 
đình ở nông thôn đã thoát nghèo và trở nên giàu có, cơ cấu kinh tế NNNT có những thay 
đổi theo hướng sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, trên thực tế NNNT hiện đang tồn tại những 
hạn chế đó là: thiếu vốn, đầu tư thấp, sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân còn 
nhiều khó khăn. Vì thế, nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực NNNT rất lớn, cần thiết phải 
tăng cường đầu tư vốn cho NNNT, hơn nữa, vốn đầu tư đó phải được khai thác và sử dụng 
một cách hiệu quả mới giải quyết được hạn chế này. Trong các kênh vốn đầu tư cho 
NNNT, kênh TDNH được xem là kênh quan trọng nhất. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động 
TDNH sẽ là một trong những cơ sở quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH, 
nhất là quá trình CNH, HĐH NNNT theo tinh thần của Nghị quyết của Hội nghị Trung 
ương lần thứ năm, khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, 
nông thôn thời kỳ 2001-2010. 
 Quảng Nam là tỉnh thuần nông, nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực NNNT rất lớn 
nhưng nông thôn Quảng Nam còn khá nghèo. Là ngân hàng hoạt động trên địa bàn 
NNNT, xác định thị trường NNNT là thị trường mục tiêu, NHNo&PTNT Quảng Nam từ 
khi thành lập năm 1997 đến nay đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong hoạt động tín 
dụng như: số hộ giao dịch với ngân hàng ngày càng nhiều, dư nợ qua các năm liên tục 
tăng, tỷ lệ nợ xấu và nợ khó đòi do nhiều nguyên nhân (trong đó có thiên tai bất khả 
kháng) giảm. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắc làm giảm hiệu quả 
hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng như cản trở việc tiếp cận vốn ngân hàng của 
người dân để phát triển NNNT. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt 
động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT tại NHNo&PTNT Quảng Nam là cấp thiết và luôn 
có ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng chính là lý do cơ bản của việc lựa chọn đề tài: “Giải pháp 
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông 
thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn” làm luận văn tốt nghiệp của 
mình. 
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
 Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung 
và hoạt động tín dụng nói riêng được xác lập và phát triển. Vì vậy, đã có những công trình 
nghiên cứu về lĩnh vực hoạt động có liên quan đến TDNH, về hiệu quả của TDNH và 
TDNH đối với lĩnh vực NNNT. Trong số đó có một số công trình tiêu biểu như: 
 - “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng thúc đẩy 
phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội” (1997), luận văn thạc sĩ kinh 
tế của Lê Anh Hào, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
 - “Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông 
nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (1999), luận văn thạc sĩ kinh tế của Võ 
Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
 - “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế trên địa bàn tỉnh Nghệ An” (2003), luận án tiến sĩ kinh tế của Hà Huy Hùng, Học viện 
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
 - “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát 
triển Nông thôn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”(2005), luận văn thạc sĩ kinh tế của 
Nguyễn Thiện Quân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
 - “Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong sự nghiệp công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, TS. Võ Văn Lâm, Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 5 
(54)/2002 Phân viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. 
 Các công trình này đã làm rõ một số lý luận chung về TDNH, về hiệu quả của 
TDNH đối với phát triển NNNT, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sự phát triển lĩnh 
vực công nghiệp ngoài quốc doanh. Đến nay, trên địa bàn Quảng Nam chưa có công trình 
nào nghiên cứu về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng NHNo&PTNT đối với lĩnh vực 
NNNT. 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
 + Mục đích nghiên cứu: tìm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động 
tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực NNNT tại NHNo&PTNT Quảng Nam. 
 + Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra gồm: 
 - Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về hiệu quả của TDNH và đặc thù 
của hoạt động TDNH đối với lĩnh vực NNNT. 
 - Phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động tín dụng và hiệu quả hoạt động tín 
dụng đối với lĩnh vực NNNT của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian qua. Qua đó, 
chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả hoạt 
động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT và những nguyên nhân chủ yếu. 
 - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt 
động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian tới. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hiệu quả hoạt động TDNH đối với lĩnh vực 
NNNT. 
 Về phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tại NHNo&PTNT ở địa bàn Quảng Nam. Thời 
gian khảo sát từ 2001 đến 2005. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
 Thực hiện đề tài trên, luận văn sử dụng các phương pháp như: 
 - Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; 
 - Phương pháp thống kê; phân tích và tổng hợp; 
 - Phương pháp khảo sát thực tế, mô hình hoá, so sánh và đối chiếu,… 
6. Những đóng góp của đề tài 
 Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam trong 
việc đề ra các giải pháp mang tính khả thi cao đối với hoạt động tín dụng phục vụ NNNT 
trên địa bàn Quảng Nam. 
7. Kết cấu của luận văn 
 Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của 
luận văn chia làm 3 chương, 7 tiết. 
Chương 1 
tín dụng ngân hàng và hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông 
nghiệp, nông thôn 
 1.1. Tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn 
1.1.1. Đặc điểm về kinh tế, xã hội nông nghiệp nông thôn ảnh hưởng đến hoạt 
động tín dụng ngân hàng 
1.1.1.1. Khái quát về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 
Theo quan điểm hiện tại, nền kinh tế của một quốc gia, vùng lãnh thổ được phân 
chia thành 3 khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. 
Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có từ lâu đời nhất trên thế giới. 
Hoạt động SXNN nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của con người như ăn, uống... 
Khi xã hội càng phát triển, SXNN không chỉ dừng lại đáp ứng nhu cầu thiết yếu mà nó 
còn là nơi cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác. Vì vậy, nông nghiệp là một ngành 
sản xuất vật chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương 
thực, thực phẩm cho người dân, nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, ngành 
nông nghiệp bao gồm 3 lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. 
Nếu nông nghiệp là một ngành, một lĩnh vực cụ thể được phân chia dựa theo ý 
nghĩa kinh tế của sản xuất vật chất thì nông thôn là một khu vực địa lý có giới hạn về mặt 
không gian và thời gian. Khi nói đến nông thôn, chúng ta thường liên tưởng đến đô thị, 
việc phân chia nông thôn và đô thị được dựa theo các tiêu chí về trình độ phát triển như: 
mật độ dân số đông, cơ sở hạ tầng phát triển, mức sống dân cư cao... Các tiêu chí này tuỳ 
theo trình độ phát triển của mỗi quốc gia và trong mỗi thời kỳ nhất định. Cũng có các tiêu 
chí khác đưa ra để phân biệt nông thôn và đô thị là dựa vào tính chất và cơ cấu hoạt động 
sản xuất vật chất của vùng lãnh thổ đó, trong đó nông thôn là khu vực có hoạt động SXNN 
là chủ yếu. Tiêu chí này đúng nhưng chưa đủ vì cơ cấu kinh tế của khu vực nông thôn cũng 
có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch 
vụ khi nền kinh tế phát triển. 
Tóm lại, khái niệm nông thôn cần phải dựa trên cơ sở kết hợp nhiều tiêu chí trên 
đây và có thể hiểu: 
Nông thôn là một vùng lãnh thổ, một khu vực có ranh giới địa lý trong đó 
dân cư sinh sống chủ yếu là nông dân - những người có hoạt động nghề nghiệp 
là nông nghiệp - hay các cư dân không phải là nông dân nhưng có quan hệ nghề 
nghiệp mật thiết với nông nghiệp. Nông thôn cũng là nơi có mật độ dân cư, cơ sở 
hạ tầng, trình độ sản xuất hàng hoá thấp hơn đô thị theo tiêu chí so sánh của quốc 
gia đó [1, tr. 4]. 
Như vậy, lĩnh vực NNNT là một địa bàn mà ở đó hoạt động SXNN được coi là bao 
trùm. Tuy nhiên, với sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, lĩnh vực 
NNNT không còn là khu vực hoạt động SXNN thuần tuý mà còn có cả hoạt động công 
nghiệp và dịch vụ, khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ trọng của hoạt động SXNN thuần 
tuý sẽ giảm đi nhưng con số tuyệt đối không ngừng tăng lên. 
1.1.1.2. Vai trò của nông nghiệp nông thôn trong việc phát triển kinh tế, xã hội 
Trong những thập niên 40 và 50 của thế kỷ XX, phần lớn các nhà kinh tế không 
đánh giá cao vai trò của NNNT trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế nên các chính 
sách phát triển kinh tế thời gian này ít quan tâm đến NNNT. Trong quá trình phát triển, 
một số nước chỉ chú trọng vào phát triển đô thị, khu công nghiệp hiện đại mà không chú ý 
đến việc phát triển NNNT. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển 
kinh tế của các quốc gia, tạo ra sự mất cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa sản 
xuất và tiêu dùng. 
Năm 1961, trong cuốn sách “ Vai trò của nông nghiệp trong phát triển" của 
Johnston và Mellor giới thiệu 5 đóng góp quan trọng của lĩnh vực nông nghiệp trong quá 
trình phát triển kinh tế [34, tr.12]. Đó là: 
- Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực và các nguyên liệu đầu vào cho các 
ngành khác của nền kinh tế. 
- Lĩnh vực nông nghiệp là nguồn thu ngoại tệ quan trọng ở các quốc gia có lợi thế 
so sánh sản xuất một số mặt hàng nông sản xuất khẩu. 
- NNNT là thị trường quan trọng cho các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế và là 
nguồn cung cấp lao động cho khu vực công nghiệp. 
- Nông nghiệp tạo ra một lượng vốn thặng dư để đầu tư cho quá trình CNH. 
Kể từ thập niên 60, khi cuộc “cách mạng xanh” mở ra khả năng thực tế cân đối an 
ninh lương thực thế giới và một số nước dựa vào việc phát triển nông nghiệp để CNH đất 
nước. Từ đó, nông nghiệp mới được nhìn nhận đóng vai trò tích cực trong phát triển kinh 
tế và cần thiết phải đầu tư. 
Việt Nam đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, phát triển NNNT có vai trò hết 
sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước bởi: 
- NNNT là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho nhu cầu cơ bản của nhân dân, 
cung cấp nông sản, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Trong nhiều năm, nông 
nghiệp tạo ra khoảng 40% thu nhập quốc dân và trên 40% giá trị xuất khẩu, góp phần tạo 
nguồn tích luỹ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [36, tr.10]. 
- NNNT là nơi cung cấp nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho công nghiệp, chiếm 
trên 70% lao động xã hội. Trong quá trình CNH, HĐH, lao động nông nghiệp chuyển dần 
sang làm công nghiệp, dịch vụ. Vì vậy, phát triển NNNT sẽ góp phần giải quyết việc làm 
cho lao động ở nông thôn. 
- Khu vực NNNT là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, nhất là 
giai đoạn đầu CNH. Nguồn vốn từ nông nghiệp được tạo ra từ tiết kiệm của nông dân hay 
ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản được đầu tư vào hoạt động phi nông nghiệp. 
- Với gần 76% dân số cả nước, nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ 
rộng lớn của công nghiệp. Phát triển NNNT cho phép nâng cao thu nhập cho dân cư nông 
nghiệp, từ đó làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn và làm cho công nghiệp phát triển. 
Nhận thức được vị trí, vai trò của NNNT nước ta trong quá trình phát triển kinh tế 
đất nước, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương đổi mới, phát triển NNNT. Quá 
trình đổi mới bắt đầu từ năm 1981, sau chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về 
khoán cây lúa đến nhóm và người lao động, nhất là sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị 
khoá VI (4/1988) về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, thực hiện khoán ruộng đất đến 
hộ nông dân. Với nhiều chủ trương, chính sách mới được ban hành, NNNT Việt Nam có 
những bước phát triển đột biến, tốc độ tăng trưởng trong nông nghiệp bình quân từ 1986 -
2002 là 5% năm [7, tr. 4]. 
1.1.1.3. Đặc điểm về kinh tế, xã hội nông nghiệp nông thôn ảnh hưởng đến hoạt 
động tín dụng ngân hàng 
Kinh tế khu vực NNNT chủ yếu dựa vào SXNN và một bộ phận phi nông nghiệp. 
Bộ phận nông dân sản xuất nhỏ chiếm đa số trong dân cư ở nông thôn nhưng sản lượng lại 
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm của khu vực nông thôn. Phần lớn sản lượng này 
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình, ít được mang ra trao đổi trên thị trường. Một 
bộ phận khác trong kinh tế nông thôn sản xuất có tính hàng hoá, sản phẩm làm ra chủ yếu 
phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Các doanh nghiệp thương mại cung cấp 
đầu vào và tiêu thụ đầu ra của SXNN cũng là một bộ phận quan trọng của kinh tế khu vực 
NNNT. Nó góp phần phát triển các ngành nghề truyền thống ở nông thôn và tạo ra các 
ngành nghề mới. Những đặc điểm kinh tế, xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất và 
hình thức của hoạt động TDNH thể hiện như sau: 
- Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào chu kỳ sinh học và điều kiện tự nhiên. SXNN 
là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng và cơ bản của nền kinh tế quốc 
dân. Khác với các ngành sản xuất khác, nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học, phụ 
thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, hay nói cách khác, hoạt động SXNN là sự kết hợp 
của hai quá trình tái sản xuất tự nhiên của sinh vật (cây trồng, vật nuôi) và tái sản xuất 
kinh tế với sự tham gia trực tiếp của con người. Tuy nhiên, do trình độ dân trí còn thấp, sự 
tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa đủ mạnh để chế ngự thiên tai nên kết quả của SXNN 
thường không chắc chắn như công nghiệp và dịch vụ. Đây là lý do giải thích tại sao lãi 
suất cho vay ở khu vực NNNT thường cao hơn so với khu vực thành thị, lãi suất cho vay 
ngành nông nghiệp thường cao hơn so với các ngành nghề khác, đồng thời cũng là lĩnh 
vực mà hoạt động TDNH cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. 
- Đầu ra của sản phẩm nông nghiệp khá khó khăn. Việc tiêu thụ sản phẩm nông 
nghiệp thường khó khăn, giá cả lại thiếu ổn định. Điều này gây khó khăn cho người sản 
xuất. Để phát triển kinh tế NNNT, cần phải có nhiều hình thức tín dụng nhằm giúp đỡ 
nông dân nâng cao năng suất, hạn chế rủi ro. Vì vậy, bên cạnh TDNH, cần có tín dụng ưu 
đãi của Nhà nước. 
- Nguy cơ rủi ro trong SXNN khá cao nhưng tỷ suất sinh lợi lại khá thấp. Do đối 
tượng của SXNN là cây trồng, vật nuôi, là cơ thể sống, hoạt động SXNN chịu sự chi phối 
rất lớn của các qui luật sinh học và quy luật tự nhiên nên rủi ro trong hoạt động SXNN rất 
lớn. Hơn nữa, năng suất lao động nông nghiệp ở nước ta còn thấp, lợi nhuận trong ngành 
nông nghiệp chưa cao. Do vậy, lãi suất cao sẽ dẫn đến người sản xuất không dám vay vốn 
ngân hàng, còn nếu lãi suất thấp, ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, lãi suất trong cho 
vay NNNT cần phải xác định linh hoạt. 
- Tính mùa vụ trong SXNN cao. Hoạt động SXNN có sự không trùng lắp hoàn toàn 
giữa thời gian sản xuất và thời gian lao động, thể hiện ở chỗ, sức lao động, tư liệu sản xuất 
được sử dụng không đồng đều trong thời gian sản xuất, đồng thời giữa chi phí sản xuất ở 
mỗi khâu và thu nhập ở mỗi khâu ấy cũng không có sự ăn khớp nhau. Vì vậy, tính thời vụ 
trong SXNN là điều không tránh khỏi. Do vậy, cần phải có phương thức nhằm khai thác 
được lượng vốn thừa và đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý của người vay trong SXNN. 
- Sản xuất nông nghiệp tính đa dạng, phân tán và nhỏ lẻ. Địa bàn SXNN rộng, 
phân tán, sản phẩm đa dạng, tính chuyên môn hoá thấp và diễn ra theo hình thức xen canh, 
mùa vụ, dễ gặp nhiều tình huống bất ngờ xảy ra. Hơn nữa, phần lớn món vay nhỏ, số 
lượng khách hàng đi vay nhiều. Vì vậy, việc thẩm định, giải ngân và theo dõi nợ vay cũng 
như thu hồi nợ cần phải khác với các lĩnh vực cho vay công nghiệp, dịch vụ, hay nói cách 
khác, cần phải có hình thức và phương thức cho vay linh hoạt. 
1.1.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn 
* Về khách hàng vay vốn: Khu vực NNNT rất rộng lớn với số lượng dân số khá 
đông, thường chiếm tỷ lệ khoảng trên dưới 80%. Với số lượng lao động lớn như vậy 
nhưng thu nhập của khu vực này lại thuộc mức thấp nhất trong xã hội nên nhu cầu tín 
dụng của khu vực này thường rất lớn và chủ yếu đáp ứng cho hai mục đích tiêu dùng và 
phát triển sản xuất. Tuy nhiên, số khách hàng ở khu vực NNNT phân bố khá phân tán, mật 
độ thưa thớt, hơn nữa, đa phần khách hàng lại có trình độ học vấn không cao và đang quen 
với nếp sinh hoạt khép kín, làm ăn nhỏ lẻ. Nhiều người trong số họ có tâm lý không muốn 
tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là tín dụng do e ngại rằng ngân hàng cũng 
không khác gì những người cho vay nặng lãi. Một số khác lại suy nghĩ TDNH như là một 
hình thức trợ cấp, cho không của Chính phủ. Chính vì vậy, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó 
khăn khi tiếp cận, triển khai các hình thức, sản phẩm tín dụng của mình. Do đó, muốn 
thành công ở thị trường này, các ngân hàng cần phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan 
đến mạng lưới chi nhánh, đội ngũ nhân viên, cũng như các vấn đề về thủ tục vay vốn, 
phương thức cho vay nhằm đáp ứng được nhu cầu vay vốn, giảm chi phí và tăng hiệu quả 
của hoạt động tín dụng. 
* Về đối tượng cho vay và quy mô vốn vay: Các khoản tín dụng thuộc khu vực 
NNNT khá phân tán và nhỏ lẻ. Đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng ở khu vực 
NNNT là nông dân. Đối tượng của tín dụng NNNT bao gồm các chi phí sản xuất nông, 
lâm, ngư nghiệp, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí mua sắm máy móc nông, ngư nghiệp, 
chi phí đầu tư, cải tạo đất, đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, 
phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn,... Với kiểu sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay thì nhu cầu 
vay vốn để đáp ứng các đối tượng này của mỗi món vay cũng không lớn, chủ yếu là để 
chăn nuôi và trồng trọt trên một diện tích nhỏ, đồng thời người dân chỉ có khả năng tích 
luỹ những khoản tiết kiệm nhỏ để gửi ngân hàng. Với đặc điểm số lượng khách hàng đông 
như đã đề cập ở trên nhưng các món vay và các món tiền gửi lại rất nhỏ nên chi phí 
nghiệp vụ của ngân hàng ở khu vực nông thôn thường cao hơn so với ở đô thị. Chi phí tín 
dụng cao nhưng tỷ suất lợi nhuận bình quân của khu vực này luôn thấp hơn khu vực công 
nghiệp và dịch vụ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của người vay lẫn 
hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải có biện pháp để giải 
quyết tốt bài toán hiệu quả của người SXNN và hiệu quả hoạt đ